Thứ Hai, 2 tháng 7, 2018

bài liên quan:" về văn nhân, thi sĩ XUÂN SÁCH [ i.e. Ngô Xuân Sách 1932- 2008.] -- blog Phan Nguyên



Friday, 5 July 2013

Xuân Sách (1932-2008)













Xuân Sách

Ngô Xuân Sách
bút danh khác: Lê Hoài Đăng
(04/07/1932 Thanh Hóa - 02/06/2008 Hà Nội)
hưởng thọ 76 tuổi
nhà thơ, nhà văn





















"Văn chương đừng nghĩ ai thắng ai ... mà chỉ nên nghĩ nó là văn chương, thế thôi!"


Xuân Sách










Xuân Sách

Tự Họa




Cô giáo làng tôi đã chết rồi*
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người du kích*
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ*
ở một cụm đường rách

   (* những chữ nghiêng là tên tác phẩm)

























Tác phẩm tiêu biểu









1
Cô Giáo Làng  
truyện ngắn, 1962






2
Đội Du Kích Thiếu Niên Đình Bảng
truyện, 1964






3
Mặt Trời Quê Hương
tiểu thuyết, 1971






4
Đêm Ra Trận
truyện ngắn, 1974







5
Con Suối Mặt Gương
thơ, 1974







6
Phía Núi Bên Kia
tiểu thuyết, 1977







7
Nơi Đi Và Đến
thơ, 1979






8
Rừng Bên Sông
tiểu thuyết, 1984






9
Đường Xa
thơ, 1986






10
Cuộc Hôn Nhân Bị Đánh Tráo
tiểu thuyết, 1991














11
Chân Dung Nhà Văn
thơ, 1992













12
Người Ơi, Người Ở Lại
truyện ngắn, 1995






13
Cõi Người
thơ, 1996






















Tham khảo thêm về tác giả Xuân Sách









Chân Dung Biếm Họa 100 Nhà Văn Việt Nam Hiện Đại







1. Hồ Phương
Trên biển lớn mênh mông sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

2. Nguyễn Đình Thi
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.

3. Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền tây sen đã tàn phai
Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.

4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say

5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
Bới tung đống rác nên trời phạt
Trời phạt chửa xong bác đã cười.

6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.

7. Huy Cận
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gày quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa
Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!

8. Xuân Diệu
Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có có gì chung.

9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu.

10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng son từ thuở ấy
Chim báo bão lựa chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi
sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ 
ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu ta cũng uống
Mặt anh em trong suối cạn
Hội nhà văn

11. Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bến cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nổi đời.

12. Kim Lân
Nên danh nên giá ở làng
Chết về ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó xá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.

13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.

14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.

15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan

16. Vũ Tú Nam
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Con về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào:
Văn Ngan

17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.

18. Đỗ Chu
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò

19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chòi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn

20. Phạm Tiến Duật
Trường sơn đông em đi hái măng
Trường sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!

21. Nguyễn Thành Long
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấy
Để mối đùn lên đến lúc già.

22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc đâu rồi mất cả tên

23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cành rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.

24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.

25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu

26. Vũ Thị Thường
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn

27. Quang Dũng
"Sông Mã xa rồi tây tiến ơi"
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
Sống tạm cho qua một kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng Ba vì xanh
Gửi hồn theo mộng về tây tiến
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"

28. Mai Ngữ
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
Biết ông sòng phẳng tự bao giờ
Cái con thò lò quay sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ

29. Nguyễn Khải
Cha và con và... họ hàng và...
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại dát1

30. Hoàng Trung Thông
Đường chúng ta đi trong gió lửa
Còn mơ chi tới những cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm

31. Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.

32. Thanh Tịnh
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được tơ lòng gió bay.

33. Chu Văn
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mới kéo cày cho xong.

34. Ngô Tất Tố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.

35. Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn sao vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho Thị Nở ngày nay
Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo.

36. Xuân Thủy
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe Vonga
Trên đời kim cương là quý nhất
Thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ chê anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn Honđa.

37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.

38. Nguyễn Khoa Điềm
Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à...

39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra đời tháng năm
Trong làng kháo chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đày kho.

40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
Khắc khoải kêu chi suốt một đời.

41. Xuân Thiều
"Đôi vai" thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng con đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái hồn của em.

42. Nguyễn Thị Như Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
Xác xơ mầu tím hoa mua
Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.

43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.

44. Nguyễn Thế Phương
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bến cũ chẳng còn ai.

45. Vũ Trọng Phụng
Đã qua đi một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.

46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm đầu
Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.

47. Đào Hồng Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
Lấy đại đội trưởng của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi gió
Phải đem tổ quốc thề bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc hẳn là trúng nghị viên thôi.

48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng nộm hình rơm.

49. Hoàng Văn Bổn
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảng đất này hoa héo khô.

50. Phù Thăng
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây.

51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
Đợi mùa sau sẽ hay

52. Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
Những người cùng làng với tôi
Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang

53. Phan Tứ
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.

54. Nguyễn Huy Tưởng
Anh chẳng còn sống mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà.

55. Thu Bồn
Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng cháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài.

56. Bùi Hiển
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ an khô cằn
Bao nhiêu năm "nằm vạ"
Trước cửa hội nhà văn.

57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn ngơ.

58. Nông Quốc Chấn
Tưởng anh dọn về làng xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
Sướng cái bụng lắm lắm à
Đêm là đèo gió ngày là hồ Tây.

59. Thế Lữ
Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới cho đời
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.

60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?

61. Phạm Huy Thông
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Vũ có lên ngôi hoàng đế
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
Đời chẳng còn gì và thơ cũng thế.

62. Giang Nam
"Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm"
"Có những ngày trốn học bị đòn roi"
Nay tôi yêu quê hương về có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.

63. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
Bỗng cơn giông nổi đến
Mây che một khung trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc vàng
Trăng mài mòn canh thâu.

64. Nguyễn Trọng Oánh
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lội chốn rừng già
Quay về không chịu ơn mưa móc
Đất nắng mưa rồi đất lại khô.

65. Nguyễn Xuân Sanh
Xưa thơ anh viết không người hiểu
"Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà"
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.

66. Thâm Tâm
"Người đi ờ nhỉ người đi thật"
Đi thật nhưng rồi lại trở về
Nhẹ như hạt bụi như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.

67. Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết tại chiến trường
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.

68. Phùng Quán
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác ở trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao.

69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường hoa ở đây.

70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước lúc rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.

71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về hội nhà văn
Ờ nhỉ bao giờ quay trở lại
Với năm anh em trên một chiếc xe tăng.

72. Trần Bạch Đằng
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ

73. Nguyễn Duy
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời của tôi.

74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước biển
Cù lao Chàm kia rồi
Nhưng khoảng cách còn lại
Xa vời lắm anh ơi.

75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ mày ra tay

76. Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.

77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi khổ lắm nói mãi

78. Vũ Quần Phương
Anh đứng thành tro... em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.

79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuốm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tìm mãi nghìn
chiều hoang
biền biệt

80. Lý Văn Sâm
Kiên Trì dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với bến xuân.

81. Tản Đà
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giộc mộng con suốt một thời bơ vơ
Tiếc chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.

82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin vào hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà hát
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm đã chết
Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết

83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?

84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi

85. Văn Cao
Thiên thai - từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca

86. Ma Văn Kháng
Khi xuôi anh mang theo
Đồng bạc trắng hoa xòe
Với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
Năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
Vì giấy gía thú chửa làm xong

87. Vũ Bão
Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đàu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim.

88. Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vẫn lẩn khuất trong mây
Lui về ký ức chân trời cũ
Uống chén rượu buồn không dám say.

89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi!

90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên số đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.

91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi về
xoay khối vuông Ru bích
Đoán vận rủi may
Thưa quý vị xin mời1
Xanh tím trắng đỏ vàng đều rõ hết
Ta cùng vào cuộc chơi.
Không gian bốn năm chiều 
thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật gỉa trắng đen
"Tôi như cục xà bông thứ thiệt"
Cứ đổ rượu vào
hình quý vị sẽ hiện lên.

92. Trần Dần
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm dài
Mở đợt phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.

93. Khương Hữu Dựng
Ba lô trên vai từ đêm mười chín
"Một tiếng chim kêu sáng cả rừng"
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ già Khương?

94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
Lại xung phong vào Nam đánh giặc
Với bà cụ đào hầm đầu bạc phơ phơ
Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
Dẫu thân thể mang đày thương tích
Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
Tình yêu vẫn đẹp sao1

95. Ý Nhi
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
Sợi dọc thì rối sợi ngang thì chùng.

96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng xưa đã lớn phải chong đèn dầu

97. Phan Thị Thanh Nhàn
Dấu một chòm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng
Những kẻ phong lưu những tên du đãng
Mấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê.

98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
"Biển một bên và em một bên".

99. Hoàng Lại Giang
Người đàn bà một thời tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
Nhưng còn đây tàn lụi đến bao giờ?

100. Xuân Sách (Tự hoạ)
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cụm đường rách tả tơi.












Xuân Sách Và Tập Thơ Chân Dung Nhà Văn

Đỗ Ngọc Thạch


Tập thơ Chân dung nhà văn gồm 100 chân dung 100 nhà văn, nhà thơ được viết bằng thơ (đa phần là thơ tứ tuyệt) của Xuân Sách (1) viết từ năm 1962 đến 1992 mới được in thành sách, tính đến nay đã gần 20 năm tuổi. Song, ngay từ khi ra đời từng chân dung thì Chân dung nhà văn đã được “truyền miệng” rộng rãi không chỉ trong giới văn nghệ mà cả trong đông đảo công chúng văn nghệ. Sự tiếp nhận của người đọc, nhất là trong giới văn nghệ, đặc biệt là những người có tên trong danh sách 100 chân dung thật đa dạng với đủ các cung bậc phản ứng khác nhau. Có một chi tiết thật bất ngờ là có một số người phản đối Chân dung nhà văn chỉ vì không có chân dung của mình, cứ như là phải được Xuân Sách viết chân dung thì mới là nhà văn có giá!

Có thể nói tập thơ Chân dung nhà văn của Xuân Sách là một hiện tượng văn học độc nhất vô nhị của văn học Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một sự phê bình, phán xét thỏa đáng của giới nghiên cứu văn học trên diễn đàn công khai. Và do vậy, cách hiểu Chân dung nhà văn còn bị nhiễu cũng như những giá trị đích thực của nó vẫn chưa được phân định rõ ràng. Và xung quanh việc ra đời và tồn tại củaChân dung nhà văn cùng Tác giả của nó có ngàn lẻ một câu chuyện vừa thật, vừa có tính giai thoại, khiến cho việc tiếp nhận và thẩm định tác phẩm ngày càng khó khăn…Dường như tiên đoán được “sẽ có ngày hôm nay” nên Xuân Sách đã để lại một cuốn Hồi ký (2) nhằm giúp chúng ta giải mã tập thơ Chân dung nhà văn. Vì nhiều lý do, cuốn Hồi ký của Xuân Sách chưa được xuất bản mà mới chỉ công bố một phần nhỏ trên một vài trang Web. Cuốn Hồi ký của Xuân Sách có nhan đề Giải mã Chân dung, bao gồm 20 phần: Khúc mở đầu và 19 phân đoạn được đánh số từ 1 đến 19. Đọc xong tập Hồi ký Giải mã Chân dung của Xuân Sách, tôi nghĩ rằng tập Hồi ký này, xét về toàn cục còn vượt xa tập thơ Chân dung nhà văn về giá trị văn học bởi nó vừa “điểm nhãn” cho 99 chân dung nhà văn, nhà thơ ở tập Chân dung Nhà văn, vừa viết thêm những chân dung mới dù chỉ bằng những nét phác họa. Và tất nhiên, đời sống văn học, cả một thời kỳ dài gần nửa thế kỷ, chỉ tính từ khi Xuân Sách về làm việc ở Tạp chí Văn Nghệ Quân đội là năm 1960, cho đến khi ông qua đời (2-6-2008), được tái hiện thật là sống động. Vì thế, bài viết này của tôi sẽ gồm hai phần: Phần Một là về tập thơ Chân dung Nhà văn và phần Hai là về Hồi ký Giải Mã Chân dung. Tuy nhiên, do đây chưa phải là một bài viết theo thể loại nghiên cứu với đủ các trình tự lớp lang nên việc diễn đạt còn tùy hứng và các ý kiến chưa phải là đã hoàn chỉnh mà còn phải bổ khuyết.

*

Thơ Chân dung được hình thành như thế nào? Phản ứng với thơ Chân dung truyền khẩu? Tập thơ Chân dung Nhà Văn được xuất bản ra sao? Phản ứng với tập thơ Chân dung Nhà văn? Đó là những vấn đề mà bài viết này sẽ cố gắng thể hiện một cách đại lược trong một “rừng câu chữ” của cuốn Giải mã Chân dung của Xuân Sách, trong đó, tác giả đã “trả lời những bạn đọc yêu quý xa gần của tôi là tôi đã nghĩ, đã viết những bài thơ chân dung như thế nào? Tôi còn muốn làm thêm cái khung cho những bức tranh ấy. Đấy là hoàn cảnh, môi trường, có thể gọi là chân dung một thời các nhà văn chúng tôi đã sống và viết”.

*

Bài thơ chân dung đầu tiên Xuân Sách viết năm 1962 trên vỏ bao thuốc lá Tam Đảo trong một buổi chỉnh huấn của quân đội phê phán chủ nghĩa Xét Lại. Bài thơ thuộc dạng hiền lành, vậy mà tức thì anh Nguyễn Khải nhận xét nghiêm túc: “ Thằng này không đùa nữa rồi”. Chân dung số l đó là thiếu tướng nhà văn Hồ Phương, đã từng giữ chức TBT tạp chí Văn nghệ Quân đội. Bức chân dung số 1 như sau:

Trên biển lớn mênh mông sóng nước
Ngó trông về Xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.

Trong Hồi ký Giải mã Chân dung, Xuân Sách viết:“Tôi viết về Hồ Phương khi ấy mới ngoài tuổi 30, mới đeo quân hàm đại úy, nhưng uy tướng chẳng liên quan gì đến chuyện hay dở của văn chương. Sự thật ai cũng biết cho đến lúc đó những tác phẩm của anh chưa có cái nào vượt đượcThư nhà, điều đó ai chả buồn nhưng rất nên biết. Thời chống Mỹ, Cồn cỏ là hòn đảo nhỏ giữa biển khơi, là tiền đồn theo dõi máy bay địch của ta, nên Mỹ đánh phá ác liệt. Bộ đội ta ở đấy đương đầu với gian khó, với hiểm nguy từng giờ. Anh Nguyễn Trọng Oánh là phóng viên của tạp chí tự liên hệ với đơn vị để ra Cồn Cỏ. Tôi vốn quý anh là con người ít nói nhưng có suy nghĩ sâu sắc, gan dạ và nhất là tính trung thực, đúng chất ông Đồ Nghệ. Khi trở về đất liền , anh viết cho báo bài bút ký dài. Với đường hướng văn nghệ thời đó, bài bút ký của anh không được ủng hộ, vì anh viết thật về người lính, dù rất dũng cảm nhưng không phải là không có tâm trạng gọi là yếu đuối hay tiêu cực. Nhưng yêu cầu của tuyên truyền lúc đó, báo chí hay văn nghệ cũng vậy, chỉ tập trung miêu tả những con người phải có ý chí cao, tư tưởng chỉ hướng tới tiêu diệt quân thù. Sau đó ít lâu , đồng chí Bí thư chi bộ của Đảo vào đất liền để báo cáo thành tích. Nhà văn Hồ Phương vốn là người nhanh nhẹn hoạt bát, anh “bắt” ngay đối tượng của mình để hỏi han ghi chép. Và rất nhanh quyển sách “Chúng tôi ở Cồn Cỏ” hoàn thành, được NXB Quân đội nhân dân in với số lượng hàng vạn bản. Quyển sách và tác giả trở nên nổi tiếng và được biểu dương khen ngợi. Không ra Cồn Cỏ, chỉ nghe lời kể của một bí thư chi bộ mà viết được quyển sách hàng trăm trang phải nhận là anh Hồ Phương có tài. Nhưng với tôi, tôi vẫn thấy tác phẩm ấy không bằng “ Thư nhà”. Chẳng lẽ thật lòng tôi nghĩ thế và tôi biết người anh lớn càng nghĩ thế, nhưng anh không nói ra - ít nhất là trước mặt tác giả - còn tôi nói ra là thiếu lễ phép. Lại một chuyện nữa, hồi ấy anh Nguyên Ngọc chưa vào Nam, anh làm thư ký tòa soạn. Anh làm cái mục điểm sách hàng tháng trên tạp chí. Thời đó sách được xuất bản ít quá nên quyển nào ra làng văn đều quan tâm. Anh Hồ Phương cũng có một tập truyện ngắn mỏng. Sau khi điểm một vài tác phẩm khác, mỗi quyển mười dòng. Đến quyển của anh Hồ Phương, nhà phê bình Nguyên Ngọc chỉ hạ một dòng sửng sốt: “Tôi không có ý kiến gì về quyển sách này vì nó không phải là văn học”.

Người xưa dạy: “Người khen ta đúng là bạn ta. Người chê ta đúng là thầy ta”. “ Không biết Hồ Phương có coi Nguyên Ngọc là thầy ? Nhưng tính anh vốn nhẹ, xởi lởi, bên ngoài coi như qua mưa lại nắng. Đó là một nét đặc biệt trong mối quan hệ của đồng nghiệp trong cơ quan mà tôi cho là lành mạnh. Như anh Vũ Cao, thủ trưởng của chúng tôi , nói: “Ở cái nhà số 4 này thằng nào ra thằng ấy, lãnh đạo một tập thể như vậy khó nhưng rất thú vị”

Nhà văn Hồ Phương vẫn viết đều in đều, có quyển anh viết người thực việc thực như truyện dài về nữ sinh Kan Lịch rồi một pho tiểu thuyết nghìn trang “ Những tầm cao” viết về Hà Nội thời chống Mỹ chia làm hai tập. Thành phố Hà Nội đặt ra giải thưởng Hồ Gươm năm năm một lần, xét tặng những tác phẩm xuất sắc của anh chị em văn nghệ sĩ thành phố. Anh Hồ Phương gốc Hà Nội tham gia Hội Văn nghệ thành phố và được bầu vào Ban chấp hành. Lần đó anh có chân trong Ban Giám khảo xét thưởng do nhà văn Tô Hoài làm chủ tịch. Đây không phải cuộc thi nên những người trong Ban Giám khảo cũng được nộp tác phẩm để dự xét.Hồ Phương gửi “ Những tầm cao” . Nhưng có điều trớ trêu : theo quy định chỉ được xét những tác phẩm in ra trong 5 năm đó, tập một Những tầm cao không nằm trong thời gian xét nên Hồ Phương gửi tập hai, trúng giải A. Phần thưởng là một chiếc xe đạp Thống Nhất vừa xuất xưởng. Thời đó chiếc xe này là loại quý hiếm, là ước mơ của những nhà văn đi bộ. Trong buổi lễ phát thưởng có một nhà văn thắc mắc: “ Tôi thấy bất hợp lý , tác phẩm phải xét toàn bộ, sao lại chỉ xét tập hai, nếu tập một có vấn đề thì sao? Làm thế này chẳng khác gì thi hoa hậu chấm từ rốn trở xuống”. Ý kiến ấy cũng chỉ là nói ra tràng cười vui vẻ chứ không làm thay đổi được kết quả cuộc xét tuyển. Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem vậy…”.

*

Chân dung nhà văn Vùng mỏ Võ Huy Tâm cũng hình thành như một “Tia chớp”. Hãy nghe lời kể lại sự ra đời bài thơ chân dung Võ Huy Tâm và phản ứng của nhà văn vùng mỏ bằng lối văn “phong cách Võ Huy Tâm” của Xuân Sách trong Hồi ký Giải mã Chân dung:

“Năm 1998, nhà văn vùng mỏ Võ Huy Tâm qua đời, nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn có viết bài báo: “ Nhà văn của những người thợ mỏ đã ra đi” đăng trên tờ Tiền Phong chủ nhật số 44 ra ngày 3/11/96 trong đó có một đoạn liên quan đến tôi và bài thơ chân dung viết về nhà văn họ Võ. Tôi xin trích:

“ Tôi có một kỷ niệm nho nhỏ với nhà văn Võ Huy Tâm. Năm 1993 nhân ra Bãi Cháy dự Đại hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh, tôi đã chứng kiến cuộc hội ngộ lý thú giữa Võ Huy Tâm và Xuân Sách, tác giả tập thơ Chân dung nhà văn đầy tai tiếng xuất bản một năm trước đó. Nhưng tôi thấy hai nhà văn chuyện trò với nhau khá vui vẻ, có thể nói là tâm đắc nữa. Võ Huy Tâm là vậy, luôn luôn hồn hậu và độ lượng, khác xa những ai kia được khen cả trăm lần vẫn chưa “đã” mà mới bị chê dù chỉ một lần là lập tức nhảy xếch lên , khiếu kiện đủ cửa” .

Mãi đến năm 1960 tôi về công tác ở Hà Nội mới gặp anh Võ Huy Tâm, tác giả Vùng mỏ nổi tiếng từ lâu. Anh Tâm là một người không ưa la cà nên chúng tôi ít lần gặp nhau, nhưng chúng tôi lại có thể chơi với nhau được. Tôi rất thích cách nói chuyện của anh, ít lời nhưng lại cung cấp cho người nghe nhiều thú vị. Chúng tôi hợp nhau trong cách gây cười và nói thật, không e dè xã giao. Sau khi cuốn Vùng mỏ được in, được giải thưởng, được dư luận khen ngợi, anh được điều về Hà Nội, rồi làm biên tập ở tờVăn Nghệ. Trò chuyện với tôi, anh thường thân mật xưng mày tao, còn tôi gọi anh là đại ca:

-Xem chừng đại ca về đây đeo cái đèn ló trên trán đi vào hầm lò văn chương, hành trình rất vất vả phải không?

-Vất vả lắm nhưng phải cố, cuốc văn còn khó hơn cuốc than. Mà từ cách ăn ở đi lại, giao tiếp tao vẫn chưa quen. Giống như mấy anh ở miền núi về thành phố xem phố xá cũng vui mắt nhưng chóng chán, đi đường nhựa không quen, ăn không quen, nói cũng không quen, lớ ngớ lắm. Tao cũng học được nhiều điều hay, nhưng khó tiêu hóa nên vẫn viết như cũ thôi.

Sau đó Võ Huy Tâm viết Những người thợ mỏ, rồi một số truyện vừa, trong đó có tập Chiếc cán búa. Rồi các nhà phê bình chính thống không thích lối viết quá trần trụi của anh, cách biểu hiện suy nghĩ của người thợ mỏ không đi đúng vào quỹ đạo “tuyên truyền”, thật quá, gay cấn quá. Có lần anh nói với tôi, có lẽ tao phải trở về than đá thôi, mày đi với tao ra chợ Đồng Xuân ăn lòng lợn chấm mắm tôm đi. Và quả thật tôi thấy anh có vẻ hoang mang bất định.

Vào một ngày mùa đông, tôi đang đứng ở cổng tòa soạn chợt thấy một người mặc bộ com lê màu gạch non, tay khoác chiếc áo khoác cùng màu. Thời đó ít người ăn mặc như vậy. Ông khách rảo bước vào cổng , tôi nhận ra đó là Võ Huy Tâm. Có việc gì mà ông đến đây với bộ dạng trịnh trọng như vậy? Tôi cầm tay anh kéo vào phòng khách, anh khum tay che miệng ghé vào tai tôi: “Sách ơi, cho mình đi ỉa nhờ một cái”. Tôi nhận ra tình trạng khẩn cấp của ông anh, liền vội đưa anh ra khu vườn cỏ dại phía sau tòa soạn.

Ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế là một trong hai ngôi nhà sang trọng của Hà Nội có kiến trúc Á Đông, mái cong, lợp ngói ống, sàn nhà, cửa bằng gỗ tốt, nhưng quân ta ăn ở thế nào mà qua mấy năm hệ thống ống nước hỏng hết, toilet không đi được. Chúng tôi cải tiến thành phòng văn mini. Mùa hè đánh trần trên nền nhà gạch non mát lạnh. Phía sau là khu đất trống, trước đây quân đội Pháp xây dựng một số phòng giam nhỏ để nhốt binh lính bị kỷ luật. Chúng tôi cải tạo những phòng giam ấy thành nhà xí, đặt một tấm bê tông có lỗ tròn, bên dưới đặt thùng “ đặc dụng” bằng sắt tây quét hắc ín, do một công ty vệ sinh thành phố quản lý, gọi nó là hố xí thùng, tiền thân của hố xí hai ngăn. Cứ khoảng 4giờ sáng chị nhân viên vệ sinh đi ủng cao su, quần áo bảo hộ màu xanh đậm, một tay xách chiếc thùng rỗng, một tay cầm đèn bão đến đập vào cánh cổng rầm rầm rồi gọi to: “Số 4 , thùng”. Đó là cách rút gọn một câu văn dài: “Nhà số 4 mở cửa để đổi thùng”

Nhà văn Võ Huy Tâm đã trở ra, mặt mày phởn phơ, cười hơ hơ:

-Sách ơi, các cụ tổng kết con người có “tứ khoái” cấm sai. Cám ơn, mình đi!

Tôi nhìn theo ông “Tây gỗ” bước thẳng đơ trên đường phố, vừa buồn cười vừa thương cảm. Tôi lên phòng, viết ngay bài thơ về ông:

Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hóa ra thằng ngẩn ngơ!

Tôi cười một mình nghĩ sẽ tới gặp Võ Huy Tâm đọc cho anh nghe và bổ sung vào bộ tứ khoái thêm cái nữa là ngũ khoái, tức là viết được cái gì vừa ý cũng là cái khoái đáng kể của giống người.

Hôm sau, anh bạn thơ trẻ Định Nguyễn đến: - Anh ơi, có bài nào mới cho em xin. Tôi đưa bài vừa viết. Định Nguyễn đọc hai ba lần rồi cười phá lên bình : - Hay, đúng là thơ ông Võ, cái chữ “thằng” rất ngon, đích thị ngôn ngữ thợ mỏ. Ngày mai chủ nhật em lại được một chầu bia hơi-bánh tôm ở Hồ Tây rồi. Chủ nhật trước có mấy ông cỡ bự bên Viện Sử, Viện Triết cũng tới nghe em đọc, hay ngày mai anh đi cùng em xem sao?

-Tuyệt đối không được, có mặt mình ở đó trở nên vô duyên. Không có mình cậu mới nghe được những lời bình phẩm thật, nghe các bố ấy bình tán rồi về kể lại cho mình nghe mới có lợi!

-Ai ngại quá, em chỉ mang cái mồm đi hưởng nhuận khẩu, còn anh nát óc ra mà chẳng được gì, có khi lại bị tai họa.

-Sao lại không được gì? Hãy đợi đấy!

Trở lại sự việc trong bài báo của anh Nguyễn Hoàng Sơn. Năm 1993 tôi là đại biểu duy nhất phía Nam, kể từ Huế trở vào được mời đi dự Đại hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Khi tôi di chuyển xe ôm từ Hòn Gai sang Bãi Cháy dừng trước cửa khách sạn Anh Đào, nơi diễn ra Đại hội, người đầu tiên chạy ra đón tôi là nhà văn lão thành Võ Huy Tâm. Ông ôm chầm lấy tôi, cười nói oang oang trước đông đảo quan khách văn nhân:

“ Hoan hô mày, mày chửi tao làm tao nổi tiếng. Tao sướng! Rồi ông hạ giọng: Mà từ ngày tao trở về vùng mỏ thì hết ngẩn ngơ”.

*

Đoạn nói về viết chân dung nhà thơ Chính Hữu thật sâu sắc và cảm động. Tuy là viết về Chính Hữu nhưng ta thấy được cả một thế hệ những nhà thơ, nhà văn mặc áo lính như Thanh Tịnh, Nhị Ca, Nguyễn Minh Châu…đã phải “lao tâm khổ tứ” như thế nào để cho ra đời những câu thơ “gan ruột” của mình:

… “Cho nên thời kỳ ấy, năm 1951 ấy tôi rất khâm phục Chính Hữu khi đọc hai bài thơ của anh “ Hà Nội đêm 51” và “Đồng chí”. Hai bài thơ hay, hai câu tuyệt tác “Mái buồn nghe sấu rụng” và “Đầu súng trăng treo”.

Nhưng rồi Chính Hữu cũng không vượt qua được bế tắc, không thấy anh công bố bài thơ nào nữa. Sau hàng chục năm, sau năm 54 anh về làm biên tập cho Nhà xuất bản Quân đội và anh cho in quyển tiểu thuyết “Tấc đất” dịch của Liên Xô. Chính Hữu cũng không tránh khỏi hệ lụy nhưng anh vốn là người chỉn chu, mẫn cán, anh chuyển về làm cán bộ phòng văn nghệ trong đó có bọn chúng tôi. Trong chống Mỹ anh bắt đầu sáng tác trở lại. Thơ anh vẫn thế, ngắn, súc tích nhưng thiếu cái bay bổng của thời trước. Anh được đề bạt làm cục phó Cục Tuyên huấn quân đội đặc trách giới văn nghệ mặc áo lính về văn học, âm nhạc, hội họa, các đoàn văn công quân đội. Lũ chúng tôi rất vui, thời buổi đó có được vị thủ trưởng như Chính Hữu thì còn mong gì nữa. Một người có bản lĩnh, trình độ vừa nguyên tắc tỉ mỉ nhưng cũng rất tế nhị, chỉ trộm lo cái con người “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” kia lại chưa có vợ. Liệu có thoát khỏi cái vòng vây của hàng trăm chị em văn công dưới trướng. Anh Nhị Ca là nhà phê bình của tạp chí chúng tôi, người bạn của Chính Hữu từ thời trên chiến khu nói :

Ông này ngoài thì tươi nhưng trong lại khô, mình đang mong có em nào vật ngã được gã quân tử lạc thời này mới khoái.

Nhị Ca nói đúng. Chính Hữu không làm việc tại công đường trong thành mà chuyển ra ở cùng chúng tôi. Ông ở một căn phòng trong dãy nhà cấp 4 phía sau tạp chí, như một nhân viên cấp thấp vậy, mà tự nhiên thoải mái.

Nhưng rồi một sự kiện xảy ra với ông , có nhiều người cho là nhỏ nhưng với tôi lại là lớn: Chính Hữu cho in một tập thơ của mình. Ông viết ít và thơ thường ngắn. Một tập thơ mỏng, in bình thường. Ông tặng tôi một quyển. Tôi vốn thích thơ ông nên đọc kỹ. Cả tập thơ chỉ có một chỗ sửa chữa câu : “mái buồn nghe sấu rụng” thành “phố dài nghe sấu rụng”. Hai chữ phố dài làm hỏng câu thơ, tôi đinh ninh rằng Chính Hữu phải biết điều đó hơn tôi. Vậy tại sao ông lại chữa? Tại sao vậy? Tôi muốn hỏi ông nhưng lại ngại. Buổi tối nhà số 4 thường vắng , phần đông anh em đều có gia đình ở Hà Nội, tối về nhà , còn lại một bác quản gia vợ con vẫn ở Nghệ An, một cậu thường trực , còn cả tầng gác mênh mông chỉ có tôi và nhà thơ Thanh Tịnh, người ăn cơm tập thể nằm giường cá nhân. Tôi nằm trong phòng đọc sách nghe tiếng chân đi ngoài hành lang, hé cửa nhìn ra thấy hai người, Nhị Ca đang đưa Chính Hữu về phòng mình. Lát sau tôi nhẹ nhàng đi tới, nếu hai người chỉ tán chuyện thì ghé vào, tôi rất thích hóng chuyện các bậc đàn anh, học được rất nhiều điều. Đến cửa tôi dừng lại vì nghe Nhị Ca hơi to tiếng: - Tại sao ông phải chữa câu thơ ấy? Húy kị thì không , đầu đề ông đã ghi rõ Đêm Hà Nội năm 1951 tức là khi thủ đô Hà Nội còn bị tạm chiếm chứ có phải hôm nay đâu ! Và kể cả ngay hôm nay ông cứ hơn hớn suốt ngày đêm không bao giờ buồn chứ? Mà mái buồn thành phố dài thì hỏng mẹ nó câu thơ rồi, điều đó ông biết rõ hơn tôi. Vậy vì cái gì? Tôi hiểu rồi, vì cái chức vụ mới của ông, cái chức cục là cái….gì, ông là nhà thơ kia mà. Tôi biết có người còn tự tuyên bố, còn viết ra giấy từ bỏ những tác phẩm nổi tiếng của mình thì bỏ 2 chữ của ông chẳng là gì, nhưng vì tôi là bạn của ông, tôi quý ông, quý thơ ông, làm thế tôi không chịu nổi…

Nhị Ca nổi tràng ho, anh vốn bị lao phổi đã phải sang Trung Quốc chữa cắt đi một lá rồi. Chính Hữu nói gì đó tôi nghe không rõ.

Tôi trở về phòng buồn thấm thía. Một lần Nguyễn Minh Châu đã nói : “Mình buồn thật, mà cũng không được viết, được nói ra cái buồn ấy, quỷ quái thật”. Có niềm an ủi là Nhị Ca đã nói ra điều đó, lại là nói với người đang lãnh đạo trực tiếp, lại nói tới vấn đề lớn là mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, giữa bản lĩnh người viết và nỗi sợ hãi đớn hèn…

Lúc sau 2 người ra về, trả lại sự vắng lặng. Có tiếng gõ cửa, anh Thanh Tịnh ở cạnh phòng tôi, anh nói nhỏ: - Sách có diêm cho mình xin một que, một que thôi!

Không phải anh muốn xin que diêm mà muốn được nghe tiếng người. Anh Thanh Tịnh trở về phòng mình. Tôi chợt nhận ra tôi đang có một khoảnh khắc tự do sáng tạo một mình, không có gì ràng buộc. Tôi viết bài thơ chân dung Chính Hữu.

Cơ quan chúng tôi có tục lệ sau các cuộc họp sơ kết tổng kết thường có mục vui cười. Lần này cũng vậy, Nguyễn Khải khởi xướng: Tôi đề nghị anh Sách đọc những bài thơ chân dung mới ra lò. Thời phong kiến vua uy quyền đến thế mà vẫn để một khe hở, tha chết cho quan ngự sử khi có lời trái ý hoàng thượng, anh Sách cũng được hưởng cái quyền miễn trảm ấy nên cứ đọc thoải mái. Xin đọc về tôi trước. Thực ra lúc đó tôi chưa chính thức viết chân dung Nguyễn Khải, chỉ có mấy câu đùa tếu, Nguyễn Khải vẫn cứ đọc làm mồi. Rằng trước khi tôi đi ra đảo Cồn Cỏ, vợ tôi lo lắng , tôi có an ủi: “Em đừng tính quẩn lo quanh, họ chiến đấu chứ có phải anh đâu”, rồi khi tôi gặp đồng chí bí thư huyện ủy Hòa Vang được triệu tập ra Bắc để báo cáo thành tích chiến đấu, vợ tôi lại tưởng tôi đi B nên tôi phải nói: “Anh đi một lát về ngay. Hòa Vang chính ở ngoài này đó em”.Chờ mọi người cười xong, Nguyễn Khải tiếp : “Tôi chỉ nhớ có vậy, vả lại tôi vốn nhạt nên ông Sách khó viết hay, bây giờ đề nghị anh đọc bài mới, những bài về anh em ngồi đây càng tốt.

Và tôi đọc bài về Chính Hữu:

Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ.

Mọi người đổ dồn mắt nhìn thủ trưởng. Tôi cũng nhìn và thấy anh hơi nhếch mép, mắt nháy nhanh sau cặp kính cận như thường thấy ở anh. Không khí chùng xuống một lát. Nguyên Ngọc bảo tôi đọc lại rồi anh vỗ bàn khen hay.

Tôi biết mình đã chọc vào nỗi đau của Chính Hữu, nhưng tôi biết anh đã chấp nhận. Tôi chắc rằng anh đã hối hận kể từ bữa gặp Nhị Ca.

Sau buổi đó, anh Nhị Ca gặp riêng tôi: - Cậu chọc đúng vào vết thương của Chính Hữu. Đau lắm, nhưng không sao. Cậu đừng lo, ông ấy là bậc quân tử. Nhưng thánh còn sai, tôi cũng khen cậu bạo miệng đấy, coi chừng sinh ư nghệ tử ư nghệ. Này còn bài nào độc hơn, đọc mình nghe!

*

Chân dung Tố Hữu là một trong những “độc chiêu” của Xuân Sách. Được viết từ năm 1973 khi Tố Hữu có bài thơ “Máu và Hoa” nhưng không được “phát hành miệng” như những chân dung khác mà phải nằm đợi 19 năm sau, tức năm 1992 khi sách thơ Chân dung Nhà văn được in ra mới được mọi người biết đến. Đó cũng là một “Kỷ lục”. Trong câu chuyện về bức chân dung đặc biệt này, có nhiều chi tiết thú vị:

“Ông Tố Hữu là người ngồi ở ngôi cao trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,với văn nghệ ông là đại thủ lĩnh, không có gì phải bàn cãi.Về thơ, ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, của hiện thực xã hội chủ nghĩa như những nhà phê bình có tên tuổi xưng tụng.Về nghệ thuật thơ cũng vậy: “thì treo giải nhất chịu nhường cho ai”như một nhà thơ lão làng đã viết. Hai câu thơ trong bài Điện Biên của Tố Hữu đã viết “Mường Thanh Hồng Cúm Him Lam/Hoa mơ lại trắng vườn cam lại vàng”, theo phân tích của nhà thơ nọ là hai câu thơ mẫu mực vừa kinh điển vừa hiện đại.Ai dám cãi hoa mơ không trắng,cam không vàng.Các cán bộ đi thuyết giảng ai cũng có thuộc và trích dẫn vài câu thơ của Tố Hữu, để thêm phần hấp dẫn cho bài nói. Tôi đã một lần bị một đồng chí chính trị viên đơn vị mời tôi về nói chuyện thơ với bộ đội, gửi thư lên Tổng cục Chính trị phê phán tôi là nói thơ mà chỉ trích thơ Chế Lan Viên mà không trích thơ Tố Hữu. Hú vía! Bài thơ văn trung học đại học năm nào mà chẳng có đề về thơ Tố Hữu, nó đã trở thành sổ gạo của từng nhà. Tôi cũng được biết, vào những năm “Nhân văn giai phẩm”, có một nhà thơ bộ đội viết bài phê bình thơ Tố Hữu có câu: “Thơ Tố Hữu như cốc xi rô pha loãng”. Như thế thì nhiều phen “lên bờ xuống ruộng”, thân bại danh liệt một đời là phải. Cũng chẳng biết kêu ai, cũng chẳng ai nói cho biết vì tội gì. Anh có viết một vở kịch có tên là “Mưa bóng mây”. Tôi đùa, ông nên coi tai nạn như là mưa bóng mây dù đó là mưa đá. Tôi cũng được nghe kể lại hồi còn ở trên chiến khu Việt Bắc, một lần Tố Hữu định đọc thơ cho nhạc sĩ Văn Cao nghe, nhưng ông nhạc sĩ vội gạt đi: “Thơ cậu như ca dao, hò vè có gì mà đọc!”. Chết là phải, tôi lập lại câu nói của ông bác tôi mắng bọn con cháu mỗi khi lười biếng hoặc mắc lỗi. Vì thế khi làm thơ chân dung về các nhà văn tôi phải nghĩ tới ông, làm thế nào để bài thơ xứng tầm với ông. Có thể nói, đó là bài tôi viết đi viết lại hoài mà vẫn chưa ưng ý. Hơn nữa, viết về ai ngoài đọc tác phẩm của họ ra tôi cũng tìm cách tiếp xúc với họ để biết ý kỹ hơn về tính cách con người họ. Tôi đã từng được hầu chuyện các bậc đàn anh, bằng cách này hay cách khác, và học hỏi được nhiều điều. Nhưng với Tố Hữu thì không.

Tôi biết ông, thấy ông thì nhiều lần đều là trong những buổi họp hành về văn nghệ, tôi còn nhớ một lần ông đến cơ quan tôi nhân tập thơ “Cửa mở” của Việt Phương mới ra đời. Khi nói đến tập thơ, đôi mắt ông lim dim nhìn xuống chúng tôi, giọng cao lên một chút: “Đó là tập thơ ba lăng nhăng, tư tưởng ba lăng nhăng”. Tôi không thể bắt chước nhà văn nọ, có tiếng là “đãng trí”, quên nhiều chuyện nhưng ông lại nhớ kỹ ngày sinh của Tố Hữu. Hàng năm tới ngày đó ông lại tới nhà tặng nhà thơ lớn một bông hoa hồng. Tôi cũng không thể lấy cớ có tác phẩm mới in đem tới tặng Đại thủ lĩnh của mình. Tôi nhớ đời một chuyện. Một hôm tôi cùng một ông bạn vàng cùng cơ quan đạp xe đi dạo ở đường Phan Đình Phùng. Con đường có ngôi biệt thự có “cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt”, có truyện ngắn cây táo ông Lành” của anh thương binh viết và cái truyện đó đã khiến anh bị “trúng thương” nặng hơn nhiều vết thương anh mang trong chiến tranh.

Khi đi qua đó, anh bạn nói với tôi:- Này, cậu có nghĩ đến là bao giờ cậu được ở trong một biệt thự như thế này không?

Tôi trả lời:- Cậu tưởng mình nằm mơ chắc? Ba mươi tuổi rồi mới là thằng trung úy quèn, sao lại nghĩ được ở ngôi nhà như thế này, có họa là làm đảo chính!

Không ngờ trong một buổi họp chi bộ sau đó ông bạn vàng của tôi đem câu chuyện đó ra trình làng:

- Tôi cũng biết đồng chí Sách nói đùa, nhưng đùa như thế là xuất phát từ tư tưởng không lành mạnh!

Cũng còn may, tôi chưa bị ghép tội có tư tưởng phản động.

Vậy thì làm sao tôi còn dám vào ngồi nhà đó. Nhưng rồi tôi cũng hoàn thành bài thơ về ông vào năm 1973 sau khi có Hiệp định Paris về ViệtNam, nói đúng hơn là sau khi nhà thơ Tố Hữu viết bài “ Máu và hoa”, do cảm xúc của sự kiện đó. Tôi còn nhớ sau khi đọc bài thơ đó tôi cứ lẩm bẩm máu và hoa…máu và hoa, rồi bật ra cảm hứng viết: “Máu ở chiến trường hoa ở đây”.

Hằng năm rồi mỗi khi Tết đến hầu như tất cả các tờ báo đều đăng thơ Tết của Bác Hồ và đăng thơ Tố Hữu, và các báo đều đăng một bài thơ ấy, mà nếu theo quy ước thì các tác giả không được gửi đăng một bài trên nhiều tờ báo cùng một thời điểm. Ai làm thế sẽ bị cắt nhuận bút và bị nhắc nhở phê bình. Nhưng thơ Tố Hữu là ngoại lệ: ai cũng thấy thế là phải, thơ hay càng đăng nhiều càng tốt! Thơ hay trả nhuận bút cao bao nhiêu cũng chưa xứng! Một bài thơ bình thường lúc đó được trả từ tám đến mười đồng ở báo Trung ương. Cỡ như Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…. có thể được trả từ mười hai đến mười lăm đồng. Như thế cũng là tươm, vì theo Nguyễn Tuân lấy giá bát phở chín làm bản vị ba hào một bát thì một bài thơ cũng được vài ba chục bát, đủ ấm bụng hàng tháng trời ăn điểm tâm buổi sáng. Còn nhuận bút báo Tết của thủ lĩnh thì sao? Tôi được biết một tờ báo nọ phải đưa ra ban biên tập bàn bạc, đi đến thống nhất là: tiền năm trăm đồng cộng với một cành đào, một cặp gà trống thiến. Riêng tiền, nếu tính bằng phở là một nghìn bát. Câu này thì tôi được nghe nói lại không biết có đúng không. Khi nhà thơ nhận nhuận bút như vậy có nói : “ Nhuận bút trả như ri các nhà thơ của ta sống khỏe hí!”

Trở lại với bài thơ tôi viết về Tố Hữu. Chín mươi chín bài thơ tôi viết xong đều được anh em đem truyền khẩu (hoặc tôi đọc trước những người tôi viết, trừ bài thơ về Tố Hữu).

Viết xong bài thơ tôi hiểu ngay rằng không thể nào truyền bá ra được, cũng phải viết trời viết đất chứ làm sao bây giờ. Tôi biết có một nhà văn gửi một bản tường trình lên thủ lĩnh tố cáo tôi đã làm thơ bôi xấu các nhà văn, rồi trích ra một số bài, nhưng ông ấy nếu không có bài thơ về Tố Hữu thì chưa đủ sức nặng. Ông liền ghi mấy câu ở vỉa hè nhại bài thơ Bầm ơicủa Tố Hữu: “Bầm ơi có biết không bầm. Vôn ga con cưỡi, gà hầm con xơi. Con nay đã khác xưa rồi (…) Bầm ra ruộng cấy bầm rung/ Con ngồi sưởi ấm mà thương lại bầm …Làm thế nhà văn nọ vô tình đã phạm thượng. Xuân Sách đã viết về những nhà văn như thế không thể viết về tôi như vậy, tôi chờ.

Và tôi cũng phải chờ. Một lần nhà văn Đặng Thai Mai gọi tôi đến nhà. Cụ bảo tôi đọc bài thơ tôi viết về Tố Hữu cho cụ nghe. Thấy tôi chần chừ, cụ nói: “Cậu sợ tôi phản cậu hay sao?”

- Thưa bác, cháu đâu dám nghĩ về bác như thế, có điều cháu nghe lời ông Hàn Phi rằng vua là con rồng nhưng có thể gần được thậm chí có thể cưỡi lên mình nhưng tuyệt đối không được sờ vào cái vuốt dưới hàm. Cháu muốn giữ được cái đầu để hoàn thành tập thơ.

- Thế là phải, nhưng cậu đọc riêng cho tôi nghe cơ mà!

- Thưa bác- tôi lại múa mép- Cái đạo của những trí giả như bác có cái hay trong bụng không thể truyền cho người khác .Cho phép cháu khoe một chút, bài này là bài hay.

Chúng tôi ngồi trên sàn nhà bằng gỗ, cụ gác cằm lên đầu gối cười khục khục rồi mắng yêu tôi: - Thằng tiểu quỷ!

Mùa hè năm 1982, tôi lên Tam Đảo nghỉ mát vài hôm. Hồi đó khách còn vắng. Một buổi chiều tôi một mình đi dạo trên con đường dưới bóng thông, tôi nhìn thấy nhà thơ Tố Hữu đang đi về phía tôi. Tôi nghĩ ông không biết tôi nên cứ lẳng lặng đi qua ông. Không ngờ ông gọi :

- Xuân Sách đó à?

- Thưa vâng, chào anh.

- Sách lên đây để viết hay sao?

- Dạ không. Tôi được cơ quan cho đi nghỉ mát ít hôm.

- Ra rứa! Còn mình thì lên đây có việc.

Tất nhiên là tôi không hỏi ông việc gì. Ông đặt nhẹ tay lên vai tôi, nói nhẹ nhàng.

- Bên công an họ thu thập được những bài ca dao đồng dao, và những truyện tiếu lâm thời bây giờ, có đến gần hai trăm trang đánh máy. Mình lên đây để đọc cho yên tĩnh.

- Thưa anh, anh thấy thế nào? Tôi mạnh dạn hỏi.

Và tôi nhận được câu trả lời ngắn khá bất ngờ: “ Cực kỳ phản động, cực kỳ hay.”

Có hai ông Tố Hữu trong câu nói này. Tôi nghĩ vậy và chợt nghĩ giá như lúc này tôi đọc bài thơ viết về ông mà ông cũng phán một câu như vậy thì tôi yên lòng. Xưa nay đã từng có những nho sĩ nhờ có câu thơ hay, vế đối hay mà thoát chết đó sao. Nhưng rồi tôi không đọc, và đến năm 1992 khi tập thơ được Nhà xuất bản Văn Học ấn hành mọi người mới biết”.

Bài thơ chân dung Tố Hữu “nằm chờ” suốt 19 năm đó như sau:

Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta
Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít mù mây
Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
Máu ở chiến trường, hoa ở đây.

*

Trở lại việc in ấn tập Chân dung Nhà văn năm 1992. Hãy nghe Xuân Sách kể lại trong Hồi ký Giải mã Chân dung:

Một ngày tháng tư-1992. Tôi nhận điện từ chi nhánh NXB Văn Học ở Sài Gòn: Sách đã ra lò. Lên ngay!

Từ khi cầm bút, tác phẩm ra lò của tôi chưa đến nỗi nhiều nhưng cũng đủ làm nguội cái cảm giác hồi hộp sung sướng của thuở ban đầu. Lần này thì khác, đứa con tinh thần của tôi ra đời là tập thơ Chân dung nhà văn. Hành trình của nó đã đi qua một chặng đường dài đến ba mươi năm. Ba mươi năm ấy biết bao nhiêu chuyện.

Nhưng như cái nghiệp đã vận vào thân, không đùa thì còn biết làm gì! Các chân dung lần lượt xuống chiếu với nhiều cung bậc khác nhau. Có bài đùa một tí, có bài đùa dai, có bài xót xa đồng cảm, có bài nghẹn ngào uất ức, có bài “mỗi lời là một vận vào khó nghe”. Ra bài nào truyền tay bài đấy, truyền khẩu ở mọi nơi mọi lúc, ở giờ nghỉ các cuộc họp, ở quán nước vỉa hè, ở cửa hàng bia hơi bánh tôm Hồ Tây, ở quán thịt chó Hàng Lược… Và tất nhiên cũng được đặt lên bàn các cuộc họp của Ban Thường vụ Hội Nhà văn, cuộc họp Ban Tuyên huấn Trung ương và các cơ quan chức năng về văn hóa, văn nghệ, cơ quan bảo vệ văn hóa văn nghệ. Tôi cứ ngu ngơ như kẻ điếc không sợ súng, hay nói như nhà phê bình VTN, “ông Sách bị quỷ ám”. Cũng có lúc bị bầm dập tôi thấy cô đơn trơ trọi, cũng có lúc ngộ ra cái khoái cảm tuyệt vời trong sự sáng tạo văn chương, tôi lặng lẽ đi tới. Biết đâu, “Dại chốn văn chương ấy dại khôn”!

Ba mươi năm sàng lọc được trăm bài, chín mươi chín bài xưng tụng các anh các chị đồng nghiệp, bài thứ một trăm tự vẽ mặt mình!

Nhưng làm thế nào để in ra thành sách? Nhiều người góp ý cho tôi. Anh Phùng Quán nói: Thơ ông tuy truyền miệng truyền tay cũng coi như “một sàng trong xó bếp” , in ra mới được coi là “ một miếng giữa làng”! Có người khuyên không nên in ra mà để lưu truyền như một thứ văn học dân gian, có khi tạo nên một dòng thơ Chân dung như dòng thơ Bút Tre vậy, tạo việc làm cho các nhà sưu tầm khảo cứu hậu thế.

Có người cảnh báo , từ truyền khẩu mà in ra giấy trắng mực đen của loại thơ độc hại này là một khoảng cách “chết người”. Trăm năm bia đá, nghìn năm bia miệng, đâu phải chuyện chơi!

Tôi ghi nhận những lời khuyên ấy. Tôi nhớ lại một chuyện: Năm 1978 , tôi đi học ở Học viện Chính trị quân đội. Trước ngày khai giảng, các học viên nêu những thắc mắc chính của mình. Phần lớn ý kiến là chưa hiểu quan điểm “làm chủ tập thể”. Tôi chú ý đến một học viên là Chính ủy một sư đoàn nổi tiếng về chiến tích và vị Chính ủy là một cán bộ tiêu biểu. Anh nhận thức cuộc đời là bể khổ, khi hết khóa học anh nói: - Tôi cảm ơn các đồng chí trong khóa học này đã góp ý về nhận thức của tôi. Có đồng chí nói đây là một nhân sinh quan yếm thế, không phù hợp với tư tưởng cách mạng. Đó là một tư tưởng hơi kỳ quặc của một Chính ủy, là phần tiêu cực trong giáo lý đạo Phật…Tôi thành khẩn tiếp thu, có thể các đồng chí đúng nhưng với riêng tôi cho đến lúc này tôi vẫn đinh ninh cuộc đời là bể khổ.

Còn tôi cũng đinh ninh rằng phải in được tập thơ Chân dung. Một việc cực khó. Phải thông qua một nhà xuất bản và Tổng biên tập các báo đã có nhiều bài học chua cay trong việc này. In một cuốn sách, đăng một bài báo có “vấn đề” mà cơ cực ở chỗ những vấn đề ấy có khi chỉ là ý kiến một số người, không được tổ chức công khai bàn luận rộng rãi. Lỗi nhẹ thì kiểm điểm nghiêm khắc, lỗi nặng thì các vị Giám và Tổng lặng lẽ cắp cặp đi chơi chỗ khác. Một lần tôi được tới nhà hát dự buổi tổng duyệt một vở kịch, khán giả là một số bạn bè do tác giả mời, một số phóng viên văn hóa văn nghệ của các báo, và các vị có chức trách phê duyệt. Và quan trọng hơn cả là một vị lãnh đạo ở bậc cao. Hôm đó vị lãnh đạo cao cấp không phải là người phụ trách về văn nghệ mà là người phụ trách lĩnh vực mà nội dung vở kịch đề cập tới. Vị này là người vốn xuề xòa không quan cách. Tác giả vở kịch rất mừng khi ông này tới dự. Một việc bất ngờ xảy ra: lúc vở kịch đã diễn được một nửa thì vị lãnh đạo lặng lẽ cùng người bảo vệ ra về. Từ đầu tác giả đã để ý tới nhân vật quan trọng ấy, lúc này hết hồn. Thế là hết, chỉ vài hôm nữa, là báo chí sẽ lên tiếng “thăm hỏi sức khỏe” vở kịch và tác giả. Cũng may tác giả là người đã có tên tuổi, đã được vua biết mặt, chúa biết tên. Ngay sáng hôm sau, ông đến nhà riêng vị lãnh đạo để thỉnh thị. Cấp trên cười hồn nhiên:

- Làm gì có chuyện mình bỏ về vì vở kịch có vấn đề! Mình chưa xem hết nên chưa có ý kiến tổng kết được. Những gì mình đã xem cũng thấy được, cái cô gì đóng vai cô nông dân diễn vui ra phết.Ông về họp anh em lại lấy ý kiến anh em rồi nâng tầm tác phẩm lên là được. Xin lỗi nhé, mình phải về vì cái bệnh của mình trở chứng không chịu được. Yên tâm đi, nhà văn trước hết phải chịu trách nhiệm về tác phẩm của mình, cốt nhất là không sai lạc về chính trị là được. Thế nhá!

Vậy thì tác phẩm, hay dở chưa biết nhưng chắc chắn là có “vấn đề”. Làm sao mà tìm được một ông giám đốc xuất bản dám chịu trách nhiệm với mình. Có một nhà văn làm giám đốc một nhà xuất bản ở địa phương đã đến tuổi hưu, ông đang làm thủ tục. Có người bạn quen đem tác phẩm đến , ông giám đốc biết là tác phẩm hay nhưng cũng có vấn đề nên còn e ngại. Ông bạn xúi ông làm sao sách in xong đúng vào lúc ông xách gói về vườn là yên chuyện. Giám đốc xuôi lòng, tác giả vui mừng về nhà chờ đợi rồi một bức thư gởi tới: “ Ông, sách của ông tôi đã làm xong thủ tục chỉ còn đem xuống nhà in thì anh em trong cơ quan họp lại nói với tôi, thủ trưởng sắp về hưu còn niêu cơm để lại cho anh em chẳng lẽ lại bị đập vỡ. Ông thông cảm nhé, là người nhà cả mà. Tôi vẫn giữ bản thảo, nếu ông cần tôi sẽ gửi trả”.

Mấy anh em văn nghệ ở Vũng Tàu thường hỏi tôi : “ - Anh vẫn định in tập Chân Dung chứ? Liệu bao giờ thì in được?” Một lần tôi buột miệng: “Năm 92 in được. Tôi nói vậy bởi thường nhẩm tính, năm 30 tuổi bắt đầu viết, năm 60 tuổi in ra, vừa lúc về hưu là đẹp. Vậy mà sau này khi sách in ra có nhà văn lên án tôi là “cố ý in sách đúng vào năm kỷ niệm Hội Nhà văn 35 tuổi, là có dụng ý xấu”. Thật oan uổng, tôi hơi đâu mà để ý đến tuổi tác của Hội. Nói đặng, nếu sau này tập thơ của tôi lại được khen chẳng hạn, chắc người ấy lại nói, “Xuân Sách rất có ý thức khi in sách của mình đúng dịp Hội ta 35 xuân”.

Cuối năm 1991, anh Hoàng Lại Giang, nhà văn, trưởng chi nhánh Nhà xuất bản Văn Học ở Sài Gòn xuống Vũng Tàu:

- Tôi xuống là để bàn với ông về việc in thơ Chân dung, ông đồng ý không?

Ông Hoàng vừa nói vừa cười.

- Đừng đùa làm tôi tổn thọ!

- Không chỉ ý riêng tôi mà đã được Giám đốc tôi đồng tình. Chuyện không dễ nhưng ông thử tính xem, bây giờ là thời điểm sau đổi mới, Văn nghệ được “cởi trói”, tôi biết ông “máu” in, chúng tôi cũng liều…Thân với ông không chớp lấy thời cơ này thì hỏng!

Tôi vỗ mạnh vào bàn tay Hoàng Lại Giang: - Tiên sư “Tào Tháo”. Chúng ta làm!

Việc đầu tiên là tôi nộp bản thảo để gửi ra Hà Nội duyệt. Chợt lóe lên một ý nghĩ, tôi nói: - Gửi ra Hà Nội, dù ông giám đốc Lữ Huy Nguyên ngồi trong phòng riêng đóng kín cửa mà đọc cũng không ổn, ông ấy sẽ cảm thấy những ánh mắt xuyên tường nhìn vào khiếp lắm. Hay là chúng ta mời ông ấy vào trong này coi như một chuyến đi nghỉ mát Vũng Tàu, rồi chúng ta làm việc. Ông ấy gật đầu là xong!

Hoàng Lại Giang đồng ý tức thì:- Ông nói có lý, tôi sẽ về Sài Gòn thực hiện ngay!

Hôm sau, Giang gọi điện thoại với giọng hồ hởi: Lữ Huy Nguyên đồng ý và sẽ thu xếp vào sớm.

Những năm ở Hà Nội, tôi có quen biết anh Lữ Huy Nguyên. Anh tính lành, làm việc cẩn trọng và chu đáo. NXB Văn học do anh làm giám đốc có uy tín lớn. Ra được nhiều sách không chỉ đúng mà hay, có nhiều phát hiện đổi mới. Nhà văn cỡ tầm tầm như tôi mà có sách được in ở Văn Học là hãnh diện lắm. Trong những lần gặp anh Nguyên chuyện trò, chưa bao giờ tôi đả động đến Chân dung. Nhưng tôi biết anh không thờ ơ với những bài “tai tiếng” ấy và anh lại càng biết nếu in nó ra thì sẽ thế nào. Tôi còn biết cấp trên rất chú ý đến tài đức của anh và việc cất nhắc anh lên bậc cao hơn là chuyện có thực và rất gần.

Khoảng một tuần sau, anh Nguyên và anh Giang có mặt ở nhà tôi. Sau một buổi chiều cùng nhau đi dạo loanh quanh thành phố, buổi tối chúng tôi làm việc. Tôi mời Lữ Huy Nguyên ra bãi biển. Ngồi trên chiếc ghế đá,dưới ngọn đèn sáng, chúng tôi thông qua từng bài thơ một và trao đổi một số ý kiến ban đầu. Trong khung cảnh trời cao biển rộng chúng tôi chẳng e ngại điều gì, bộc lộ hết ý nghĩ, thỉnh thoảng còn xen vào những chuyện đời, chuyện người, và không thiếu những tràng cười thú vị. Đến khuya chúng tôi mới quay về.

Sáng hôm sau, thêm anh Hoàng Lại Giang bàn bạc , có thể tóm tắt như sau. Anh Nguyên đề nghị bỏ hai bài, không , gọi là để lại, một bài viết về nhà thơ Sóng Hồng. Lý lẽ của anh Nguyên là bài ấy chưa đến tâm của tác giả, chưa đến tâm của đối tượng. Bài thứ hai viết về một nhà lý luận phê bình. Bài này hay - lời anh Nguyên - nhưng chưa nên đụng vào ông này gay lắm. Ông ấy sẽ dồn tôi và anh đến cùng. Cũng chẳng sao, nhưng đáng sợ là ông ấy có đủ khả năng làm cho tập thơ in xong cũng phải đắp chiếu mà nằm đấy. Ông ấy là một cây lý luận hàng đầu của Đảng về văn hóa văn nghệ. Như tôi biết, ngoài danh xưng “ nhà” ông còn một danh xưng cao hơn với tên gọi tắt là “Trung ủy” dù chỉ là dự khuyết suốt hai khóa. Anh em văn nghệ thường thầm thì với nhau đó là một cây quan điểm lập trường, một tay bảo hoàng hơn vua.

Ngoài ra, còn sửa hai chữ ở hai bài khác. Tôi chấp nhận dù hơi tiếc, và “điều” luôn hai bài khác ngồi ghế dự bị vào sân cỏ.

Lữ Huy Nguyên nói với tôi bằng giọng nghiêm túc và nhã nhặn vốn có:

- Tôi đề nghị anh cho nhà xuất bản chúng tôi được ấn hành tập thơ này. Tôi muốn hỏi anh vài chuyện bên lề có được không?

- Vâng, mời anh.

- Nghe nói có người nước ngoài tới mua bản thảo tập thơ?

- Có hai người, một từ Nhật đến gặp tôi, một người Mỹ qua trung gian.

- Họ đặt số tiền ứng trước khá lớn?

- Với ta thì thật lớn. Tôi tính ra một nhà văn xứ ta viết được quyển tiểu thuyết nghìn trang, với chất lượng xứng tầm thời đại thì nằm mơ cũng không nghĩ đến số tiền nhuận bút như vậy! Người Nhật còn hứa với tôi xin phép Nhà nước Việt Nam để xuất bản hợp pháp.

-Và anh từ chối?

-Đơn giản là vì tôi tâm niệm phải xuất bản trong nước!

Nguyên quay sang Hoàng Lại Giang:

- Anh xem có thể ứng trước cho anh Sách một số tiền được không? Chắc chắn là không nhiều, nhưng có lẽ anh Sách xài tiền Việt dễ hơn tiền đô!

- Khỏi cần! Cuối năm 1967 tôi đã vào chiến trường miền Nam, NXB Giải Phóng có ý tốt ứng trước cho tôi 200 đồng. Thời giá hồi đó một bát phở ngon Hà Nội năm hào, còn thuốc lá thì Trường Sơn một dãy ba hào/ Điện Biên lịch sử hai bao một đồng/ Nghìn năm văn vật Thăng Long/ Một đồng một gói bằng lòng thì mua. Tôi đi dịp đó dự cuộc Tổng tiến công Mậu Thân. Ở chiến trường ra tôi nộp cho nhà xuất bản khoảng ba chục bài thơ. Sách in ra tôi tới lĩnh nhuận bút. Nhà thơ “Ý Nhi xinh đẹp, biên tập viên bắt tay tôi cười. Khó cho anh rồi, thơ của anh theo barem thì nhuận bút hẻo lắm! Cũng tại thơ anh viết ngắn, lại không “leo thang” nên ít dòng. Bọn tôi đã ưu đãi đưa một số bài ở bậc B1 lên bậc A, ngồi chung chiếu nhất với các cụ mà cộng lại chỉ được 180 đồng, như vậy đáng ra anh phải nộp lại hai chục, nhưng anh khỏi lo, nhà xuất bản đã quyết định xóa nợ cho anh! Tôi nói lời cảm ơn và tiếc rằng không có tiền mời Ý Nhi đi ăn phở. Vậy các anh khỏi ứng trước dẫu tập thơ này của tôi có trăm bài nhưng bài nào cũng ngắn, dài nhất cũng chỉ mươi dòng, chẳng được bao nhiêu nhuận bút đâu!

Lữ Huy Nguyên cười rồi cầm bút ký vào bản thảo:

- Chúng tôi sẽ làm nốt vài thủ tục cuối cùng, anh Giang sẽ bàn với anh về chuyện in ấn, sao cho càng nhanh càng tốt.

Hoàng Lại Giang “đế”: -“Cưới vợ thì cưới liền tay”…

Khi tiễn chân Lữ Huy Nguyên , tôi nói với riêng anh: - Lư có gì phân vân nữa không? (Tên cúng cơm của anh là Nguyễn Huy Lư, tôi gọi thế là để biểu lộ tình cảm chân thành và khâm phục).

Nguyên đáp lại: - Anh yên tâm, tôi nghĩ suốt đời cũng làm được điều gì đó!

Chúng tôi ôm nhau chia tay.

Hai hôm sau, Hoàng Lại Giang trở lại, đem theo bản thảo, một xấp giấy can và mấy cây bút kim:

- Cái khó nó ló cái khôn , tôi nghĩ ta đưa vào nhà in để họ xếp chữ là không ổn. Cái thứ thơ ngắn của ông thế nào công nhân cũng đọc khi xếp chữ xong và in thử, lập tức những bài thơ sẽ bay ra ngoài và điều gì đến chắc ông rõ: Chết từ trong trứng. Vì vậy, tôi đem giấy bút đặc biệt xuống để ông viết tay các bài thơ, viết bằng chữ thường, chữ mẫu mà hồi bé chúng ta phải tập ấy. Khi đưa vào nhà in cứ thế họ cho vào máy chạy. Cùng lắm hai ngày là gọn ba nghìn cuốn theo số lượng mà nhà xuất bản đăng ký. Đúng ra thơ ông đã được truyền miệng rộng rãi, có thể số lượng bản in gấp nhiều lần ba ngàn, nhà xuất bản có lãi và tác giả cũng được ấm chân răng, nhưng làm thế nguy hiểm lắm, bị nghi ngờ ngay lập tức.

- Cảm ơn Giang nhá, ông quan tâm chu đáo với tôi quá!

- Mà tôi nói để ông rõ: Thường ở nước ngoài, phải là tác giả có cỡ lắm tác phẩm mới được in bút tích của mình, mà cũng chỉ vài ba trang thôi, còn ông cả trăm bài, nhất ông rồi đấy!

- Đúng là mèo mù vớ cá rán!

Tôi bắt tay ngay vào việc. Tôi nắn nót viết cái thứ chữ tập viết hồi xưa ở trường làng với ông hương sư mặc áo dài the đen đứng lớp cầm tay thước gõ vào ngón tay học trò với lời dạy: “ Các con nên nhớ luyện chữ là luyện tâm tính con người”. Gọn một ngày tôi viết xong, Hoàng Lại Giang ưng ý đem về Sài Gòn và êm đẹp làm sao, sau một tuần tôi nhận được điện đi lấy sách.

Ngồi trên xe từ Vũng Tàu lên Sài Gòn tôi mừng nhưng vẫn canh cánh nỗi lo. Đã sống một thời gian dài trong chiến tranh, nhiều hoàn cảnh, nhiều luật lệ khắc nghiệt éo le khiến số phận con người gặp nhiều bất trắc; cái sướng cái khổ, cái rủi cái may đến bất ngờ không kịp đối phó. Trong cõi văn chương chẳng lấy gì làm to lớn cũng đã có quá nhiều chuyện. Một cây bút trẻ có tài, lại chịu khó đi vào những nơi là mũi nhọn của cuộc sống viết những trang sáng giá được biểu dương, sách được đưa vào loại in số lượng tính bằng vạn. Ít lâu sau anh biến mất. Anh bị đi tù mà chẳng kịp biết vì sao không có phiên xử, cứ lặng lẽ lên đường không kịp từ biệt gia đình. Phúc cho anh sau bảy năm tu nghiệp trong nhà tù khi trở về viết được gần nghìn trang sách thuộc loại có giá trị. Nhưng cũng khốn khó lắm mới in ra được, cũng nhờ một ông giám đốc xuất bản có lương tâm và dũng khí. Dù quyển sách không hề được dư luận công khai bình luận, bị thu gom không công bố, nhưng bằng mọi cách tác phẩm vẫn đến được với người đọc. Sang thế kỷ 21, không khí văn nghệ được dễ thở hơn, chúng tôi đã được đón tiếp tác giả Chuyện kể năm 2000 - nhà văn Bùi Ngọc Tấn tại Vũng Tàu.

Năm 1973, một nhà văn ở cùng tạp chí Văn nghệ Quân đội với tôi đeo quân hàm đại úy, được cử đi trong đoàn đại biểu Việt Nam dự đại hội Liên hoan Thanh niên thế giới được tổ chức tại Cộng hòa Dân chủ Đức. Rất mừng. Được cử đi đã là một niềm vui lớn vì sự tín nhiệm chính trị. Trong thời chiến lại được đi dự một ngày hội lớn thế giới còn phải nói gì nữa. Dù hoàn cảnh khó khăn, anh bạn tôi vẫn cố gắng tổ chức vài cuộc liên hoan nhỏ để khao bạn bè. Tôi lúc đó đêm đêm đeo một balô gạch tập hành quân chuẩn bị cho cuộc đi B dài. Anh chở tôi đi ăn một bát mì hoành thánh đặc biệt ở cửa hàng người Tàu ngõ Hàng Lược. Chạm chén rượu, anh nói:

- Mình với Sách cùng đi. Sách đi vào , mình đi ra. Là người viết, được đi là vui rồi!

- Anh đi Đông Đức, tôi đi Đức Cơ, chúng ta cùng đi, cùng vui.

Một tuần trước khi lên đường anh bỗng nhận được lệnh ở lại. Người ta phát hiện ra trong lý lịch của anh có chút tì vết ở mức độ “đi Liên Xô thì được nhưng đến Đức nơi tuyến đầu giáp giới giữa hai phe có thành phốBerlin phân chia đông tây hai phe thì không được.”

Lại một chuyện xảy ra ở sân bay. Một cậu sinh viên được chọn đi du học nước ngoài. Cậu ta con một gia đình bình thường nhờ học giỏi mà được đi. Việc lo hành trang, thủ tục giấy tờ quá vất vả, cuối cùng được ra sân bay. Làm thủ tục xuất cảnh, gửi hành lý xong, chỉ còn chờ giờ tàu cất cánh. Không biết ma xui quỷ khiến thế nào, khi ngồi xuống chiếc ghế ở phòng chờ, cậu ta ngả lưng vươn vai kêu lên một câu cảm thán : “Thế là sắp được làm người”. Chợt từ phía sau e é - đôi tay cậu ta bị xiết chặt và cậu bị nhấc bổng ra khỏi ghế, và rời khỏi sân bay , tan biến giấc mơ làm người do cậu ta dại dột thốt ra. Số phận chàng trai bất hạnh ấy sau này như thế nào thì tôi không rõ…

Nghĩ lan man thế rồi chột dạ, biết đâu cuốn sách của mình bị trắc trở phút chót, hãy đợi đến lúc được cầm nó trên tay mới chắc ăn.

Xe dừng trước nhà xuất bản gần chùa Vĩnh Nghiêm. Tôi không xuống vội, qua cửa kính tôi nhìn vào trong sân thấy đông người, trong đó có nhiều nhà văn mà tôi quen. Họ đến mua sách của tôi, người cầm vài ba cuốn, có người ôm nách hàng chồng. Có chuyện gì vậy, chẳng lẽ tác phẩm của tôi được chào đón đến vậy ư? Hoặc là cái của này không nhanh tay mà bị cấm thì hết mua? Tôi có một tâm trạng, một động thái kỳ cục, nhờ một người đi cùng vào nhận sách bản quyền và mua thêm đem ra rồi quay đầu xe dông thẳng về Vũng Tàu.

Trên xe, tôi nâng niu cuốn sách vừa vặn bàn tay, giống loại sách bỏ túi. 99 nhà văn và tôi nằm mỗi người một trang, chật chội một chút nhưng không ai chen lấn ai, nhòm ngó ai. Bìa cũng khá đơn giản, trên nền hoa văn li ti màu xám nhạt điểm một bông hoa màu đỏ. Tôi giở nhanh từng trang - chưa cần đọc lại vì in đúng như bản tôi viết tay nên không sợ mắc lỗi đến cuối sách thì hiện ra sự cố. Một tờ in rời dán vào, đó là “ Lời cuối sách” của nhà xuất bản mà tôi chưa được biết. Tôi xin trích ra một số đoạn chính:

“… Đây là những ký họa có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua. Tác giả không nêu đích danh một ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả và người làm văn học vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to những đặc điểm và khi nhìn vào những nét đặc tả ấy - tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật.

Chất vui hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó..

Chúng tôi chỉ coi đây là nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên các chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình, học hiểu mình thêm qua cách nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.

… Rất mong độc giả và các nhà văn nhận xét ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết.”

Một lần nữa tôi lại thông cảm với Lữ Huy Nguyên. Anh đã kịp thời dùng chiến thuật lập lá chắn phòng ngự trong bóng đá. Còn có cách nào khác khi đối phương có một hàng tiền đạo đông đảo và hăng hái tranh nhau bắn phá khung thành đối phương không thương xót, cố mà phòng thủ kéo dài được thời gian không bị thủng lưới chừng nào hay chừng ấy để có thể đưa sách ra thị trường.

Sự cố thứ hai còn bi hài hơn. Ở trang cuối nơi ghi những người chịu trách nhiệm về cuốn sách có một mảnh giấy trắng dán kín một dòng, như người bị vết xước phải dán miếng băng keo y tế. Đó là chỗ in tên người chịu trách nhiệm về bản thảo ( Nguyễn Bảo ). Mãi đến phút cuối khi sách đã in xong, nghe ngóng thấy có sự bất an, ông này năn nỉ với giám đốc cho rút tên ra, ông sắp về hưu rồi, muốn được hạ cánh cho an toàn.

Đề nghị của ông ấy được chấp thuận, nhưng tiếc rằng sách đã in xong không thể in lại nên bất đắc dĩ phải làm chuyện cắt dán. Cầm sách soi lên có thể đọc được dòng tên người chịu trách nhiệm bản thảo, giống như con trẻ trong trò chơi trốn tìm sau khi có chỗ ẩn nấp kín đáo rồi lại kêu tướng: Xong!

Thế là đứa con ra đời. Vì mẹ nó không được “tròn” nên nó cũng không được “vuông”, phải mang dị tật, báo hiệu những ngày sắp tới không bình yên. Mấy hôm sau, tôi nhận được những thông tin không tốt lành: có lệnh mồm xuống nhà xuất bản, phải giữ lại và niêm phong những tập thơ chưa kịp phát hành. Ở Hà Nội có nhiều cuộc họp phê phán tập thơ, một số nhà xuất bản viết kiến nghị xử tội tác giả. Tuy nhiên , tác giả không nhận được trực tiếp bản kiến nghị ấy. Họ gửi vào một số cơ quan Trung ương và hai bản gửi về Vũng Tàu, một cho lãnh đạo và một cho Hội Văn nghệ.

Xin trích nội dung bản kiến nghị ấy:

“….. Cuốn Chân dung nhà văn dẫu không nêu tên người, nhưng Xuân Sách đã lấy tên tác phẩm để miêu tả thì chẳng khác gì gọi tên người đó ra.

Dưới con mắt của Xuân Sách, chân dung nhà văn trở nên méo mó dị dạng. Cố nhiên Xuân Sách cũng tỏ ra xu phụ nịnh một số ít người.

Bằng giọng thơ châm chọc, giễu cợt, bằng thái độ cao ngạo răn dạy kẻ khác, kích động kẻ khác, Xuân Sách đã mượn cách tả Chân dung để:

- Bôi nhọ, phỉ báng, thậm chí vu khống đối với nhiều nhà văn đáng kính đã quá cố.

-Xuyên tạc lăng mạ đời tư nhà văn một cách vô trách nhiệm, đặc biệt là các nhà văn nữ, gây những hậu quả cực kỳ xấu đối với họ.

-Với vị trí văn học hạn chế của mình, Xuân Sách đã gây không khí bất lợi cho sự đoàn kết nội bộ của Hội.

Chúng tôi coi đây là một vết xấu trong sinh hoạt văn hóa của chúng ta, đặc biệt trong quản lý xuất bản.

Chúng tôi xin kiến nghị lên các cấp thẩm quyền mấy điểm:

1.Xem xét lại trách nhiệm của người cấp giấy xuất bản, của giám đốc Nhà xuất bản Văn Học và các biên tập viên đã cho in cuốn sách.

2.Phải có biện pháp thực sự thu hồi và hủy bỏ cuốn sách.

3.Ban chấp hành Hội Nhà văn xem xét tư cách của nhà văn Xuân Sách và có kỷ luật thích đáng chiếu theo điều lệ Hội vì đã xúc phạm nhân cách gây mất đoàn kết nội bộ. Kỷ luật cần được thông báo cho toàn thể hội viên biết.

Kính mong Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa Thông tin Thể thao, Ban Chấp hành Hội nhà văn xem xét bản kiến nghị này”.

Sau những lời luận tội đanh thép và các biện pháp xử lý nghiêm túc là mấy trang chứa đựng những chữ ký như rồng bay phượng múa của Bốn Mươi Mốt nhà văn đáng kính. ( Tôi chợt nhớ tới bộ phim Người thứ bốn mốt khá hay của Liên Xô trước đây ). Có nhà văn còn ghi thêm trước khi ký. “ Tôi không thể nào tưởng tượng được, với nội dung toàn nói xấu gần như toàn bộ Hội nhà văn như vậy lại có thể được in tới 3000 cuốn và nghe nói đã “lập tức” bán được 600 cuốn rồi. Ông ấy nghĩ thế cũng phải, sự thật nhiều khi khác xa trí tưởng tượng của nhà văn.

Tôi phát hiện ra trong số 41 người ký tên có ông ấy và 26 nhà văn nữa không có chân dung trong tập thơ. Tôi không hiểu làm sao lại thế.

Một nhà văn bậc đàn anh giải thích cho tôi. Hoặc giả họ có tính bầy đàn cao, đụng tới đồng loại là đụng tới họ. Hoặc giả… chuyện này có thật, một ông nhà văn tai tiếng thì to nhưng tác phẩm lại nhỏ nói với mình “cái thằng Xuân Sách văn thơ tầm tầm chẳng ai chú ý, nên bày trò Chân dung để chơi trội. Chẳng qua hắn mượn tên tác phẩm và vài câu thơ , ý thơ của người ta rồi xào xáo lắp ghép vào , có gì sáng tạo đâu”. Nghe vậy mình bảo “thế thì ông quan tâm làm gì cho rách việc?”. Bất ngờ, ông ấy cao giọng: Nhưng một người như tôi tại sao nó lại không đưa vào? Láo!”.

*

Đối với các “Bậc Trưởng Lão” từ thời 30-45, những tưởng Xuân Sách sẽ bị mắng mỏ là “phạm thượng”, “hỗn láo” hay đại loại như vậy. Nhưng Thơ Chân dung đã nhận được sự đối xử rất quân tử. Chỉ ví dụ như với ba Đại gia là Nguyễn Tuân, Xuân Diệu và Hoài Thanh:

Chân dung Nguyễn Tuân:

Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.

Cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách... cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng
bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem, nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm”.

Chân dung Xuân Diệu:

Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì chung.

Và phản ứng của Xuân Diệu: Xuân Sách kể: Một lần gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc: Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử!

Chân dung Hoài Thanh:

Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan.

Trong Lời cuối sách nhân NXB Văn học tái bản cuốn Thi Nhân Việt Nam,nhà Phê bình văn học Từ Sơn viết: “Một lần khác, vẫn ở bên giường cấp cứu, sôi nổi, vui vẻ, chúng tôi bàn về thơ “chân dung nhà văn” đang lưu hành trong giới văn chương. Cha tôi khe khẽ đọc lại mấy câu “thơ chân dung” nói về ông mà ai đó đã đọc cho ông:

Vị nghệ thuật một nửa đời
Nửa đời lại phải vị người cấp trên
“Thi nhân” còn một chút duyên
Chẳng cầm cho vững lại lèn cho đau!...

Đọc xong, cha tôi bình: “Tay này nó biết mình mê Kiều nên nó dùng lối lẩy Kiều để vẽ chân dung mình thì khéo thật. Tuy vậy câu thứ hai nói oan và nói ác quá. Cha biết có không ít người nghĩ như thế về cha”. Nói xong, cha tôi có vẻ hơi buồn buồn”.

Trong bài viết Lời cuối sách này, Từ Sơn cũng đã nói rõ tại sao Hoài Thanh lại có cái “nhìn lại” rất nghiêm khắc với “Thơ Mới” và nhất là tự phê phán Thi Nhân Việt Nam tới mức như Xuân Sách đã viết “Thi nhân còn một chút duyên / Lại vò cho nát lại lèn cho đau”!

*

Những câu chuyện về Nguyễn Minh Châu, Phù Thăng và chân dung về hai nhà văn này, theo tôi là hay nhất về cả chân dung bằng thơ và chân dung bằng văn xuôi. Với hai nhà văn này và cộng thêm Xuân Sách ta có “Bộ ba” điển hình độc đáo về cả văn tài cũng như cuộc đời đầy bất trắc của những nhà văn chân chính. Tôi sẽ trở lại ba nhà văn này khi có điều kiện…

Xuân Sách có bài thơ “triết lý” rất nhẹ nhàng mà sâu sắc về nhân tình thế thái và tuy thường nói là mình liều mạng “điếc không sợ súng” nhưng chính Xuân Sách là một trong số ít nhà văn, nhà thơ rất “biết mình, biết người”, đã tự nhận thấy hạn chế của mình trong sự nhận thức thế giới, câu đầu bài thơ cũng là nhan đề bài thơ:

Có nhiều điều mà tôi chưa biết
Hòn núi kia có tự bao giờ
Con kiến bé tí teo đến vậy
Còn con voi to lớn khổng lồ?
Có nhiều điều mà tôi chưa biết
Lá mâm xôi giống lá mãn đình hồng
Một bên nảy ra chùm quả dại
Một bên hoa rực rỡ đến nao lòng?
Có nhiều điều mà tôi chưa biết
Nước suối trong mát ngọt lịm người
Rồi suối chảy ra sông ra biển
Muối ở đâu mà biển mặn biển ơi?
Có nhiều điều mà tôi chưa biết
Tằm ăn dâu xanh lại nhả tơ vàng
Nguyễn Du viết Kiều bao đêm trắng
Bao sợi tóc xanh bạc trắng bên đèn?
Một cô Kiều sắc tài nhường ấy
Trải qua nhiều chìm nổi truân chuyên
Không dứt được lòng tham danh lợi
Khiến Từ công chết đứng trận tiền.
Nhưng có lẽ cuộc đời vốn vậy
Biển cứ mặn mòi, suối cứ ngọt êm
Voi cứ khổng lồ, kiến thì bé tẹo 
Cái tốt dù nhiều cái xấu vẫn kề bên.

Sài Gòn, tháng 10-2010


Chú thích:

(1) Xuân Sách (4/7/1932 - 2 /6/2008) tên thật là Ngô Xuân Sách, bút danh khác: Lê Hoài Đăng, là hội viên Hội Nhà văn VN. Ông được nổi danh khi là tác giả phần lời các ca khúc Đường chúng ta đi (dựa trên tứ thơ của Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên), Cùng anh tiến quân trên đường dài (nhạc Huy Du), đặc biệt nổi bật qua tập thơ Chân dung nhà văn.

Quê tại xã Trường Giang, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở trước khi ông qua đời: TP. Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Quá trình hoạt động: Từ năm 1960 đến1980: Biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ năm 1981 - 1984: Phó giám đốc NXB Hà Nội. Từ năm 1985 đến 1995: Chủ tịch Hội Văn nghệ Bà Rịa -Vũng Tàu...

Đêm 2 tháng 6 năm 2008, ông qua đời tại bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội), sau hai tháng nằm viện tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội do tai biến mạch máu não. Ngày 6 tháng 6 năm 2008, linh cữu nhà văn Xuân Sách được đưa về an táng tại quê nhà Thanh Hóa, theo nguyện vọng sinh thời của ông.

Tác phẩm: Cô giáo làng (truyện ngắn, 1962); Đội du kích thiếu niên Đình Bảng (truyện, 1964); Mặt trời quê hương (tiểu thuyết, 1971); Đêm ra trận(truyện ngắn, 1974); Con suối mặt gương (thơ, 1974); Phía núi bên kia(tiểu thuyết, 1977); Nơi đi và đến (thơ, 1979); Rừng bên sông (tiểu thuyết, 1984); Đường xa (thơ, 1986); Cuộc hôn nhân bị đánh tráo (tiểu thuyết, 1991); Chân dung nhà văn (thơ, 1992); Người ơi, người ở lại (truyện ngắn, 1995); Cõi người (thơ, 1996).


100. Xuân Sách (Tự họa)

Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa sởn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Ở một cụm đường rách tả tơi.


(2) Tập Hồi ký Giải mã Chân dung của Xuân Sách do ông Nguyễn Hòa VCV cung cấp. Những dẫn chứng không đánh số chú thích là đều lấy từ Hồi ký Giải mã Chân dung này.  ./.




Đỗ Ngọc Thạch















CHA TÔI



Ngô Nhật Đăng





1/Hôm nay tròn 30 ngày cha tôi rời cõi tạm, tôi vẫn giật mình vì cứ ngỡ ông vẫn còn đâu đây. Dù rằng những ngày cuối cùng ông nằm trên giường bệnh tôi biết không thể níu kéo ông ở lại thêm nữa. Mười ngày cuối cùng ông không chịu tiêm, uống thuốc, không chịu ăn (phải dỗ dành rất lâu ông mới ăn một chút) và nhất định không chịu nói gì nữa chỉ cười và giả vờ ngủ. Khi chúng tôi đưa ông vào bệnh viện với ý định kiểm tra phổi thì ông bị hôn mê luôn, bác sỹ nói với tôi: Hỏng hết rồi anh ạ tim, gan, phổi, thận vv… tức là lục phủ ngũ tạng không còn gì nữa. Tôi chóang váng, nó ngược hòan tòan với kết quả khi bố tôi ra viện trước đó một tháng. Anh ta còn nói thêm “em không hiểu tại sao lượng Natri trong người cụ nhiều thế, anh có thể đưa cho em xem tất cả các đơn thuốc và phác đồ điều trị của cụ từ trước đến giờ được không?”. Để mà làm gì, tôi nghĩ. Ngay đêm đó bố tôi qua đời. Hôm sau khi làm thủ tục tôi phải viết một tờ giấy đại ý: Cám ơn bệnh viện đã tận tình cứu chữa và xin không khám nghiệm tử thi,  họ còn nói thêm anh khai chính xác ngày sinh, hộ khẩu cho cụ để còn làm chế độ vì “Giấy chứng tử” chỉ cấp một lần.

Để mà làm gì, tôi lại nghĩ.

Khi quay về nhà anh em tôi thấy một tờ giấy ném qua khe cửa của anh bác sỹ vẫn đến chăm sóc cho ông vào mỗi buổi tối. Anh viết “Các em ơi¸các em mang ông đi đâu mà không báo cho anh biết”.

Ngày bé tôi có được nghe câu thơ:

Dấu hỏi (?)bâng khuâng đứng giữa đời
Sên bò quanh quẩn giọt máu rơi
Chấm than(!) một dấu chiều nay hiện
Đinh đóng vào săng câu trả lời
Sau này biết câu thơ trên không giống hoàn toàn với câu thơ của Vũ Hoàng Chương nhưng tôi vẫn thích hơn vì tính “hội họa” của nó như ông anh (học ở Tổng hợp Văn) khi đọc cho tôi nghe có nói “Em thấy dấu hỏi (?) có giống con sên đang bò quanh giọt máu và dấu chấm than (!) có giống cái đinh đang đóng vào cỗ quan tài không?” .
Lớn thêm một chút biết câu “Cái quan định luận” chỉ cảm nghĩ sống trên đời cho đúng thật khó. Đi học Tử Vi thày dạy loại người chia làm 6 lọai:
Hiền, Lương, Anh, Hùng, Tuấn, Kiệt. Một lần ngồi với bác Nguyễn Hữu Đang bác nói: Bác chia lòai người làm 3 lọai:
1 - Toàn danh và tòan thân như Trương Lương, Phạm Lãi
2 - Toàn danh mà không toàn thân như Hàn Tín, Ngũ Viên
3 - Toàn thân mà không tòan danh thì là loại vứt đi.
Bác còn nói “Bác là loại hai, Hàn Tín thôi, bố cháu mới là loại một, bác phục bố cháu ở điểm đó.
Khi đi học vẽ để cho đủ “Cầm, Kỳ, Thi, Họa, Lý số” (rút cuộc biết rất nhiều thứ mà thật ra chẳng biết gì).Thầy dạy vẽ lại dạy: Bác chia loài người làm hai loại, số đông và số ít và nói thêm cháu chọn đứng ở phía nào là tùy cháu. Va đập với cuộc đời tơi tả, lấy vợ, đẻ con, kiếm tiền… có những lúc “ngồi trên đống tiền” có những lúc không một xu dính túi, nợ nần ngập mặt vợ lo cho từng điếu thuốc. Bốc một quẻ Dịch thì kết quả lại là: “Người quân tử bị hại đến nơi giường chiếu ”tức là đến mất nơi cư trú. Kỳ lạ, không hiểu “ma xui, quỷ khiến” thế nào đùng đùng bán nhà đưa tiền cho người khác dắt díu vợ con đi xuống Kim Mã thuê nhà ở. Cũng chỉ mong vợ con sẽ đỡ khổ hơn, vào Sài Gòn với điều kiện “Tao sẽ giải quyết mọi việc cho bọn mày và chúng mày phải lo cuộc sống tối thiểu cho vợ con tao ngòai Hà nội” “OK, no problem”. Khi đi Hà Nội còn là đầu hè quay ra đã cuối thu, từ sân bay về đến Quang Trung vợ con ra đón trông như hình nhân.
- Anh ơi không có tiền chủ nhà đuổi, bạn em đón ba mẹ con về ở, bây giờ mình về đấy.
- Chúng nó đâu, những thằng em, thằng bạn anh ấy?
- Làm gì có ai
Giận đời,giận mình, thương vợ con, mình là lọai người gì đây trong bảng xếp hạng. Nhớ bố, có lần ông nói “Sống là người lương thiện mới là điều đáng kể con ạ”.
Muốn kêu lên như Chí Phèo “Ai cho tao làm người lương thiện”.
Hôm bố mất sau khi đưa ông xuống “nhà lạnh” hai vợ chồng về nhà, bật laptop đọc Chân dung tự họa của ông, rùng mình thấy sự đáng sợ của chữ nghĩa. Tự nhiên khóc tu tu như trẻ con, vợ bảo anh ơi cứng rắn lên để còn lo cho bố.
Chúng tôi đưa ông về quê cho ông được ở gần ông bà, nhìn dòng người dài dằng dặc đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng,những giọt nước mắt chân thành của những người nông dân ăn mặc tồi tàn, họ đâu cần biết ông là người nổi tiếng và ông đã bỏ quê ra đi từ ngày còn trẻ. Ông không kể nhưng tôi biết khi ra đi ông đã thề sẽ không quay trở lại và một sự thật nữa là ông lại tha thiết muốn được về nằm vĩnh viễn ở mảnh đất này.Tôi tự nhủ : Bố ơi con có thể khắc trên bia mộ bố dòng chữ “Nơi đây an nghỉ một người lương thiện”.
Khi ra về vợ tôi nói:
-Anh nhìn kìa, mấy chục ngôi mộ đều xếp hàng dọc, một mình mộ bố lại nằm ngang, ông “ngang” cho đến lúc chết.
Rồi cô ấy thì thầm:
-Anh Ái đưa em hai triệu và bảo cả làng lo cho đám ma của bố em, không có người nấu cơm, anh đã đặt cơm ở một nhà hàng ngòai thành phố Thanh Hóa rồi. Về đó chỉ mất nửa tiếng em cầm tiền này để thanh toán.
Chao ôi, họ sợ rằng những người ở Hà Nội về sẽ không nuốt nổi những món ăn nhà quê. Tôi ứa nước mắt, bố tôi là người thế nào, chúng tôi là người thế nào có xứng đáng nhận những tấm lòng như vậy không?

Tôi về đến bến sông xưa
Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò
Nhìn theo ngọn khói vu vơ
Nhớ thương thì có đợi chờ thì không
(Thơ bố tôi )

*
* *

Mấy hôm trước chú Trần Hoàng Bách phone cho tôi:
-Cháu đọc chưa, chú ức quá bọn nó viết về bố mày có nhiều bịa tạc ẩu tả lắm.
Ồ! Tôi thóang nghĩ bây giờ thiếu gì lọai kên kên chuyên nghiệp ăn nhuận bút. Nhưng rồi tôi tò mò vào google, kiên nhẫn đọc hàng trăm bài viết về bố tôi. Chân thành có, sâu sắc có, hời hợt có, hiểu đến gan ruột ông cũng có và tất nhiên giả dối cũng có. Thậm chí có người còn gọi ông là “lương tri thời đại”, là “người cõi khác”… 
Hôm nay cô Nam gọi điện “Đăng ơi đến nhà cô nhé” khi tôi đến cô nói sắp 49 ngày của bố cô muốn viết một bài về bố, rồi cô đưa tôi xem lá thư cuối cùng bố tôi gửi cho cô, tôi cảm động khi nhìn nét chữ quen thuộc của ông đề ngày 25-10-2007, nội dung chỉ là thăm hỏi bình thường và thậm chí vẫn hài hước “anh bây giờ hàng ngày vẫn hát câu: Những binh đoàn nối nhau ra tiền - liệt - tuyến” và hẹn khi nào vào Sài Gòn nhớ gọi cho ông. Nhưng dòng cuối cùng ông viết ra giữa trang:
Nhớ không được vào chậm em nhé.
Hôm ở nhà tang lễ cô ôm tôi khóc: Vô duyên quá Đăng ơi, cô hẹn gặp bố ở Sài Gòn thì lại gặp ở bệnh viện Hà Nội và hôm nay lại là ở đây.
Cả buổi sáng hai cô cháu chỉ ngồi nói về ông, cô bảo sao cháu không ghi lại những chuyện này của bố,để lâu quên mất Đăng à.
Thì viết, đơn giản chỉ là cố hiểu ông là người thế nào.

2/Dân mình háo danh một cách kỳ lạ,tôi đã đi khắp nuớc “Từ Mục nam quan đến Mũi Cà mau”sống gần đủ hết với 50 “dân tộc anh em”nước ngoài cũng từng đi, nhưng cũng chưa dám nói con người là giống háo danh mà chỉ dám nhận thuộc tính ấy là của đồng bào mình (tất nhiên là có cả tôi). Trong 1,2 thập niên gần đây nước ta có phong trào họ họ làm gia phả và cố moi ra trong họ mình phải có ông quan nào đó(dù là quan hạng bét).Họ nhà tôi cũng vậy, mở cuốn gia phả dày cộp ra dòng đầu ghi: Cụ viễn tổ tên là Ngô Nhật Đại từ Châu Ái(Tức Thanh hóa) sau bao nhiêu đời không rõ di ra Đường Lâm Sơn Tây đến đời ông Ngô Đình Mân thì lấy con gái ông Phùng Hải mở ngoặc tức là cháu gái vua Phùng Hưng(kinh chưa) đến năm 40 tuổi đẻ ra Ngô Quyền (khiếp chưa) và họ nhà tôi chọn Ngô Quyền làm ông tổ.
Vào các năm Tý,Ngọ,Mão,Dậu sẽ lấy ngày giỗ vua Ngô Quyền là ngày giỗ tổ và tính từ đó đến tôi là đời thứ 47.Tôi không dám hỏi nếu ông Ngô Quyền không làm vua thì có được chọn làm ông tổ không vì sợ các cụ đánh cho bỏ mẹ.Lại nhớ một lần ở Budapest đứng trên quảng trường Anh hùng nơi đặt tượng các vị vua của đế quốc Áo Hung. Ông bạn Hungary bảo tôi : dòng họ tao vinh dự được đóng góp 7 vị vua cho đất nước này.Tôi bảo dòng họ tao cũng cống hiến được hai ông vua một bà hòang hậu và một ngài tổng thống, rồi cũng vênh mặt lên trước con mắt khiếp đảm và ghen tỵ của mấy ông bạn Việt Nam đi cùng, nhưng trong đầu tôi thì nhớ đến câu chuyện trong Trung Hoa xú lậu nhân à quên Người Trung Quốc xấu xí chứ, hay là tạp văn Giả Bình Ao nhỉ? đại khái có một thằng ăn mày chỉ vào nhà một ông quan lớn và gào to : Hồi ông nội tao làm tể tướng thì ông nội mày còn đi ăn mày.
Chi họ nhà tôi được gọi là dòng Ngô Trảo Nha (nanh vuốt) do câu nói của chúa Trịnh Tùng: “Khanh là trảo nha của xã tắc”. Ông tổ được gọi là “trảo nha” đó là một quận công(lại quận công)tôi nhớ ông chỉ vì trong gia phả ghi (lại gia phả)ông có 9 bà trong đó có bà chính thất là quận chúa con Trịnh Tùng,nhưng ông lại mê bà giúp việc hơn ông 11 tuổi và cưới luôn làm thiếp, bà quận chúa ghen tuông nên ông đem bà trả lại phủ Chúa,chúa Trịnh tức giận cách chức ông và tước quyền được mang họ Ngô.Nhưng vì tiếc tài của ông nên một thời gian lại đuợc phục chức,lấy lại họ và vào trấn thủ bờ bắc sông Gianh.Kể ra Trịnh Tùng cũng là người liên tài, chứ tội ấy thì dễ “tru di tam tộc” lắm(Nhân vật này được đánh giá như Tào Tháo của Việt Nam).Một chi di cư vào Đồng Hới và sinh ra gia đình khét tiếng đó là nhà ông Ngô Đình Khả cha đẻ của Tổng thống Ngô Đình Diệm(Ông Ngô Đình Khôi và con là Ngô Đình Huân bị xử bắn năm 1945).Còn chi nhà tôi do một ông quận công (lại quận công nữa) quay về Yên Lai nay là xã Trường Giang,huyện Nông Cống Thanh Hóa lập nghiệp.Dòng họ bắt đầu suy vi theo nghĩa không còn ông quan lớn nào nữa vì cả quãng thời gian dài dằng dặc(đến tôi là đời thứ 11) chỉ có một người mà tôi gọi là cụ cố ngũ đại làm đến chức “án sát” Ninh Bình rồi Bố chánh tỉnh Quảng Bình và sau đó vào Huế làm chức tương đương “cục,vụ viện” gì đó trong Bộ giáo dục theo cách gọi như bây giờ.Có lẽ do phẫn chí ông bỏ về theo phong trào Cần vương phò vua Hàm Nghi.Tôi kính phục về cái chết của ông,sau khi thất bại,học trò yêu bị giết,con trai bị bắt ông lên chiếc thuyền trên con sông cạnh làng uống rượu, đọc thơ , đến ngày thứ 3 khi không nghe thấy tiếng, dân làng ra thì thấy ông đã chết.Một ông bác tôi đã bỏ ra hàng 10 năm chạy vạy khắp nơi chỉ để xin cho cụ được cái “Bằng” chứng nhận là Danh nhân lịch sử “cấp tỉnh” rồi mới yên lòng nhắm mắt.Nhưng dòng nhà tôi học giỏi khét tiếng,bác ruột tôi đã từng được Công sứ Pháp công kênh trên vai chụp ảnh vì “can tội” học giỏi nhất xứ Trung Kỳ, bố tôi cũng được gọi là “thần đồng”.Còn giáo sư,tiến sĩ cả ở Anh, Pháp, Úc thì nhiều vô kể. Ở quê thì cứ đứa nào đi thi đại học là đỗ,chỉ riêng nhà tôi ngòai một cô em gái còn lại chả có đứa nào học qua đại học dù nổi tiếng học giỏi.Có lần một bà tiến sĩ người Đức hỏi tôi : Anh là tiến sĩ ngành gì ? Tôi trả lời : tôi là tiến sĩ ngành lang thang.
Không ai được lựa chọn quê hương và cha mẹ,với tôi hồi còn trẻ khái niệm quê thật mơ hồ,năm 12 tuối được về quê lần đầu tiên,lần thứ hai thì đã ngòai 40 mà lại do vợ dẫn về.Vợ tôi kể: hôm cưới con o Can (em bố tôi ở Hải Phòng) em nói với các o các chú,cháu lấy chồng hơn 10 năm mà chưa biết quê chồng ở đâu.Thế là các bà cô phải tổ chức một chuyến cho vợ tôi về quê nhận họ hàng.
Chưa ai giải thích được nguyên do sự kỳ thị vùng miền ở nước ta,ngày nhỏ đi học thì sách giáo khoa đổ lỗi cho chính sách chia để trị của “thực dân Pháp”bây giờ thực dân đã không còn tồn tại gần thế kỷ trên đất nước ta mà sự kỳ thị ấy còn nặng nề gấp bội.Như quê tôi chẳng hạn nào là “ăn rau má,phá đường tàu”rồi “cờ bạc Thanh Hóa”thậm chí trong cộng đồng xuất khẩu lao động ở các nước Đông Âu thời XHCN còn có câu đối :
Trâu toi bò dại trai Thanh Hóa
Lợn sề chó cái gái tỉnh Thanh
Bây giờ cứ rảnh rỗi là vợ chồng con cái lại kéo nhau về quê, thấy ấm lòng nhưng cũng day dứt .

3/Ông bà nội tôi có 6 người con,sau khi sinh bác tôi ông sang Pháp 4 năm, khi quay về đẻ liền tù tì bố tôi và 4 người em nữa chỉ cách nhau chỉ một và hai năm. 
Ông tôi chắc là đi lính vì được gọi là ông Đội và còn được thưởng cả huân chương nữa.Dân làng kể có lần một tốp lính Pháp vào làng, có người báo ông tôi , ông ăn mặc chỉnh tề đeo huân chương đi ra,viên chỉ huy nhìn thấy đứng nghiêm giơ tay chào rồi rút thẳng.Một ông anh họ của tôi giờ cũng đã gần 70 tuốikhốn khổ vì hồi cải cách ruộng đất bị “đội” tra hỏi xem huân chương của ông tôi và sắc phong của cụ cố giấu ở đâu.Bảng sắc phong của cố tôi giờ vẫn còn nhưng huân chương của ông tôi đã mất nên không biết là lọai gì.Một ông anh họ khác của tôi khẳng định với tôi là Bắc Đẩu Bội Tinh,tôi nói em nghe đó là Huân chương cao quý nhất của nước Pháp nếu người Việt Nam mình có được thưởng thì chắc phải cỡ “Đại Việt gian”như cụ Thượng Phạm Quỳnh chẳng hạn,chỉ có thế mà ông ấy giận tôi mãi.
Bố tôi rất ít kể về ông nội ngòai chuyện có lần còn bé đánh cờ với ông bị xách 2 chân ném ra ngòai sân vì tội bố bị mất xe xin hoãn mà ông con không chịu và thói quen đi ngủ là phải sờ dái tai bố.Bà bác họ tôi kể có lần ông tôi mải chơi tổ tôm đến giờ bố tôi đi ngủ ông phải nhờ người khác giả vờ là ông tôi nằm cạnh để cho bố tôi sờ tai, phát hiện không phải bố tôi hét ầm lên thế là lại bị ăn đòn.Ông còn một thói quen kỳ cục nữa là sau khi đi ỉa là ông nội tôi phải chùi đít,một lần ông nội tôi đang có khách,bố tôi đi xong cứ đứng đòi ông tôi phải chùi đít không chịu cho ai thay thế và lại ăn thêm 1 trận đòn.Bà bác ấy là người chăm sóc bố tôi từ bé, cho bố tôi bú vì bà nội không có sữa, khi bố tôi đi học xa nhà bà là người gánh gạo theo ông để chăm sóc.Có lần bà kể với tôi : Ba cháu răng mà ăn khỏe rứa,mỗi bữa phải 3 bát “ôtô” cơm và 6 con cá kho thật to,nó đo cá bằng cách để lên miệng bát nếu đầu đuôi không thừa ra ngòai là dứt khóat không ăn. Ông tôi mất sớm từ năm 1948,chú tôi kể đám ma ông to lắm cả 4 xã gọi là Tứ Trường đi đưa ông.Bà tôi một mình nuôi đàn con nhỏ trừ bác tôi đã lớn và đi học xa, ông học Trường Cao Đẳng Sư Phạm ở Hà Nội,ngày đó sinh viên trường Thuốc và Sư phạm có giá lắm. Các thiếu nữ con nhà giàu Hà Nội có tiêu chuẩn kén chồng : “Phi Cao đẳng bất thành phu phụ”.Nhưng ông về quê lấy vợ cũng là con một gia đình nổi tiếng,bố vợ bác tôi bị bắt hồi cải cách ruộng đất vì bị quy là đại địa chủ cường hào ác bá, ông bị chết tại trại giam và đến bây giờ vẫn chưa tìm được mộ.
Con trai lớn của ông là một cán bộ cách mạng uất ức treo cổ tự vẫn.Một lần về quê, tôi có đi qua làng ông.Nhiều người vẫn kể về những việc ông đã làm như mở xưởng dệt, xưởng nấu “xà phòng” bằng dầu dừa vv…Cơ ngơi của ông qua các đợt cải cách ruộng đất rồi “sửa sai” chẳng còn lại gì,thậm chí những người được chia “quả thực”cũng dỡ đến từng viên gạch ra bán.Chỉ còn lại cây cầu bắc ngang con sông vào làng gọi là cầu “Ông Hội đồng Thận”.Bác dâu tôi kể hồi xây cây cầu đó ông thuê mấy trăm lính công binh từ miền Nam ra làm ròng rã mấy tháng trời. Thế hệ tôi không biết gì về cải cách ruộng đất và đến bây giờ đó vẫn là một khỏang trắng trong lịch sử.Chưa có một đánh giá nào về những đau thương mất mát đó.Nhớ ngày tôi còn nhỏ cứ mỗi năm vào ngày 26 -10 Âm lịch lại thấy bố tôi tìm một chỗ kín đáo trong nhà thắp một nén hương và khóc,ngày đó đảng viên cộng sản mà thắp hương là phiền phức lắm.Khi tôi đi bộ đội, một lần về phép tôi có hỏi bố tôi về chuyện này mới biết đó là ngày giỗ của bà nội. Ông im lặng một lúc lâu rồi buột mồm nói với tôi: “Bà nội của con bị chết đói trong cải cách ruộng đất”.Tôi bàng hoàng một điều như thế mà sao ông giữ im lặng lâu vậy sao.Một tuần sau khi bố mất, đến nhà ông chú út tôi mới được biết tường tận cái chết của bà.Chú tôi kể : Bà nội không chết đói đâu mà bà tự tử vì quá uất ức.Chú nhỏ nhất nên suốt ngày chỉ ở nhà quanh quẩn bên mẹ,hôm đó thấy bà ra vườn sau hái một nắm lá ngón,chú cũng không nghĩ được bà hái làm gì,sau đó bà tắm rửa sạch sẽ nấu cơm cho chú ăn và nói mẹ đi ngủ đây. Đến chiều không thấy bà dậy chú vào buồng gọi thì bà đã đi rồi. Hơn tháng sau bố mày về phép, vào đến nhà câu đầu tiên là “Mẹ đâu?”.Chú khóc chỉ lên bàn thờ, bố mày đổ vật xuống giường nằm lì 7 ngày không ra khỏi nhà, đến ngày thứ 8 vùng dậy lôi trong ba lô ra một cái áo bông và một cái áo len mua về cho mẹ lấy dao chặt nhỏ,châm lửa đốt rồi đi thẳng. Đến năm mày 12 tuổi mới quay về đấy.Tôi hỏi : Bố cháu có biết bà chết như vậy không?

- Không cả nhà không ai biết ngòai chú và bây giờ chú mới kể với mày.
Trời ơi cái gì thế này,bố tôi và chú tôi được cấu tạo bằng cái chất gì vậy?
Trong cuốn “Phía núi bên kia” của bố tôi có đọan : “Con đê ngăn nước mặn của làng tôi có trồng một lọai cây gọi là cây uốp,quả rất độc ăn chết người,
những người làng tôi muốn thóat cảnh đời cơ cực thường ăn quả uốp tự tử.”
Bố tôi kể năm 16 tuổi đã tham gia họat động,làm phó bí thư Tỉnh đòan,17 tuối kết nạp Đảng, đến năm 18 tuổi học xong Thành Chung thì được giới thiệu đi bộ đội và đi học luôn Trường Sĩ quan Pháo binh.Đọan đời này của ông tôi chỉ biết vậy.Mẹ tôi là một cô “văn công”bố mẹ tôi lấy nhau khi vẫn ở trong quân đội,khi có mang tôi mẹ phải về quê,lúc ấy bà nội tôi đã mất. Nhưng khi đẻ tôi được khỏang hai tháng,không chịu nổi khổ cực bà cho tôi vào ba lô trốn thẳng một mạch ra Hà Nội.

4/Tôi được sống với bố rất ít,năm 1964 lên 6 tuối bắt đầu có nhận thức thì đi sơ tán.Ba anh em tôi lên bà ngọai ở một thị trấn nhỏ ở Bắc Giang, được môt thời gian thì Mỹ ném bom xuống kho lương thực của thị trấn.Bà tôi sợ hãi mang tôi vào gửi nhà người quen ở một làng cách thị trấn hơn 10 cây số,bà bảo hai em còn nhỏ thì ở với bà,còn cháu ở đây nhỡ chết đứa này thì vẫn còn đứa khác.Bà đưa tôi cái lọ đựng thuốc cảm APC đầy vàng(về sau lớn tôi mới biết đó là vàng)và dặn:”nếu bà chết thì mỗi tháng cháu lấy ra một lá đưa cho cụ Phó,cụ ấy sẽ lo nuôi 3 anh em,cháu nhớ dấu kỹ đừng để ai biết”.Nhưng rồi tôi cũng không bao giờ phải làm việc đó.Sau 4 năm khi Mỹ ngừng ném bom Miền Bắc tôi lại đưa bà nguyên vẹn lọ vàng.Bà ngoại tôi là một người khá đặc biệt,tôi nhớ cứ mỗi buổi trưa ngồi nhổ tóc bạc cho bà (mỗi cái 2 xu) bà lại đọc truyện Kiều,Hòang Trừu,cả thơ Nguyễn Bính nữa(mà bà không biết chữ). Chuyện ngày bà còn trẻ đi buôn bằng thuyền lớn từ Hải Phòng(bà quê Hải Phòng) vào Nghệ An ra Móng Cái rồi Hồng Kông.Bà kể có ông trùm cướp biển ở Móng Cái quý bà lắm,mỗi lần thuyền của bà ra ông lại đi áp tải. Giương cánh buồm đen lên thì kể cả nhà Đoan cũng không dám chặn lại.
Bà tôi bị cắt một bên lá lách,một quả thận,khi ra viện bác sĩ nói chỉ sống được một năm. Có một ông em nuôi của bà là người dân tộc ở Cao Bằng về đón bà lên nuôi một năm,không hiểu dùng thuốc gì mà bà sống được trên 20 năm đến tận năm 1979 bà tôi mới mất.Cả tuổi thơ tôi được sống trong tình yêu thương vô bờ bến của bà.Bà dạy tôi từng ly từng tý,từ cách dọn mâm cơm,cách cầm đũa,cách để cái muôi múc canh như thế nào,cách ăn uống từ tốn ra sao, ăn cá thì phải gắp phần đầu trước,sau đó đến đuôi,còn phần giữa ngon nhất phải nhường người khác.Mỗi lần thịt gà tôi ngồi giữ cho bà cắt tiết bà đều nói câu “Hóa kiếp cho mày làm kiếp khác nhé, đừng làm kiếp gà nữa nhé”.Cứ khoảng 4 h sáng là bà dậy việc đầu tiên là thắp hương trên bàn thờ khấn vái rất lâu tôi chỉ nhớ được mỗi câu : “Con ăn ở có quỷ thần hai vai chứng giám”.Bà quý bố tôi lắm,tòan gọi là con và xưng là “Đẻ” rất ngọt ngào.
Tôi nhớ năm 1967 trước khi đi B bố lên ở với chúng tôi mấy ngày,bà bảo “Con cứ yên tâm ra đi, đẻ sẽ nuôi các cháu, đẻ có chết thì các cháu mới phải khổ”.Lúc này bố tôi lấy bút hiệu là Lê Hòai Đăng (tên 3 anh em tôi).Bố bảo nếu con nghe đài hay đọc báo thấy có tên Lê Hòai Đăng thì là bố đó.Suốt thời gian đó bố tôi chỉ lên thăm chúng tôi được một lần vì ông phải đi suốt từ Hàm Rồng,Thanh Hóa,Quảng Bình,Vĩnh Linh.,Cuối năm 1968 khi đi B ra ông lên đón tôi về Hà Nội, thấy tôi đội nón mê cầm cây sào tre buộc túm lá chuối chăn vịt trên đồng, ông ngồi trên bờ ruộng khóc rưng rức.

5/Người ôm chí lớn đi tìm bạn
Ngồi hát bâng quơ chợ vãn người
Bướm ong xiêm áo chiều chạng vạng
Gặp khách tri âm khúc khích cười
(Thơ bố tôi)

Bố tôi có khi cả ngày chả nói câu nào,nhưng cũng có khi nói cả ngày không cần nghỉ.Nhiều lúc tôi cũng ngạc nhiên trước khối kiến thức đồ sộ của ông,giấu sau vẻ ngòai hiền lành, đôn hậu là một tính cách rất quyết liệt. Ông cũng rất hài hước,có những chuyện ông kể sau này tôi mới hiểu còn lúc đó chỉ thấy buồn cười.Ví dụ ông kể : Có buối tối bố cùng bác Xuân Thiều đi dọc phố Phan Đình Phùng qua nhà ông Tố Hữu,bác Thiều nói: Sách này! có bao giờ mày nghĩ được ở trong những ngôi nhà này không?Bố tôi trả lời mình mới là úy quèn,mơ đến bao giờ mới lên tướng,họa có mà đảo chính. Vậy mà bác ấy về báo cáo,bố bị mang ra chi bộ kiểm điểm.Chuyện năm 1972 khi bố tôi phụ trách đòan thanh niên các lực lượng vũ trang đi dự Festivan thanh niên sinh viên thế giới ở Đức. Trong đòan có anh hùng Thái Văn A,bố tôi hỏi: Cậu cũng gan đấy nhỉ đứng đếm bom nổ chậm như vậy mà không sợ à?anh A trả lời : “Anh giấu đừng nói nhé,ngay lọat bom đầu đã bay mẹ nó mất thang rồi,sợ bỏ mẹ nhưng xuống thế đếch nào được,bọn ở đơn vị cũng sợ còn bom nổ chậm có dám vào cứu em đâu.Mấy ngày sau mới đưa em xuống, đổ nước cháo vào mồm mới sống lại được,không thì cũng chết đói
Bố tôi cũng tự nhận mình chỉ là người viết chuyện chứ chưa phải viết văn,trong đời văn của ông có hai tác phẩm là Đội du kích thiếu niên Đình Bảng và Mặt trời quê hương là ông coi là có giá trị,không phải về mặt nghệ thuật mà là đã “chiêu tuyết”cho những người có công lao mà bị quên lãng.Về Đội du kích Đình Bảng tôi chỉ nghe nói khi cuốn sách ra đời thì lúc đó Nhà nước mói nhớ tới công lao và khôi phục cho những thiếu niên đó Hôm bố tôi mất các ông cũng sang đưa tiễn,tòan những ông lão đã xấp xỉ 70 cả.Làng Đình Bảng coi bố tôi như là công dân danh dự của làng,nhiều người nói nhờ ông mà làng nổi tiếng nhưng ông lại nói ngược lại,nhờ có làng Đình Bảng mà ông được nhiều người biết.Có lần ông nói khi chết đi mà vẫn còn được dân làng nhớ tới là mãn nguyện lắm rồi.Còn Phạm Ngọc Đa thì nỗi oan khiên còn lớn hơn nhiều,anh bị tra tấn đến chết mà không khai nơi trú ẩn của các cán bộ.Vậy mà sau khi hòa bình người anh hùng bỗng hóa thành tên phản bội.Gia đình người chị của anh(anh mồ côi nhà chỉ có hai chị em) sống thật khốn khó,không được chia ruộng trong cải cách ruộng đất,không được vào Hợp tác xã sau này,con cái không được học hành.Năm 1970 khi bố tôi về vùng đó được một linh mục coi sóc xứ đạo cung cấp những bằng chứng minh oan cho anh,trong khi một trong những người cán bộ được anh bảo vệ lúc đó đang là Bí thư Huyện ủy mà không có một lời nào giải nỗi oan tày trời đó.Khi cuốn Mặt trời quê hương ra đời,anh được phong anh hùng, được dựng tượng ở trung tâm huyện. Xã,Huyện được tặng Huân chươngvv…
Một lần tôi đi Lào Cai,trong lúc chờ tàu ở ga Phố Lu vào ăn cơm ở một quán bụi, chủ quán là một người đàn bà lam lũ,khi biết chị quê ở Tiên Lãng Hải Phòng,tôi hỏi chị có biết Phạm Ngọc Đa không?Thật tình cờ hóa ra chị gọi anh Đa là cậu ruột.Khi biết tôi là con của bố,chị dắt hai đứa con ra quỳ xuống lạy tôi và nói “Xin chuyển lời tới ông,gia đình con đội ơn ông nhiều lắm, ông như người đã sinh ra gia đình con lần thứ hai”.
Mấy anh em tôi cũng được bố dẫn đến mộ anh Đa một lần.
Tôi thì lại thích cuốn “Cuộc hôn nhân bị đánh tráo” viết về chuyện con của một người đánh xe bò lấy con gái một vị bộ trưởng.Chuyện này có thật, xảy ra ở nơi ba anh em tôi sơ tán tôi thích thú vì khi đọc thấy gặp rất nhiều nguyên mẫu mà tôi có quen trong đời thật.
Tác phẩm mang lại sự nổi tiếng và cũng nhiều hệ lụy nhất cho cha tôi là “Chân dung nhà văn”. Ông viết từng bài và chép vào cuốn sổ tay nhỏ loại bỏ túi.Ngày còn nhỏ tôi thường lén đọc mỗi khi ông đi vắng,một lần bị bắt gặp ông nói con chưa nên đọc cái này và đem cất kỹ.Các nhà văn hiện lên chỉ bằng vài câu thơ, những tượng đài văn học mà chúng tôi phải ra rả đọc suốt ngày trên lớp bỗng hiện ra dướihình ảnh khác.Tôi còn nhớ kỷ niệm về bài học phân tích lão Am trong Cái sân gạch,vì nhớ tới chân dung Đào Vũ mà tôi đã làm cho cô giáo dạy văn ngơ ngác.Một lần nữa năm học lớp 10 phải phân tích Chí Phèo tôi lười nên nhờ ông viết hộ,thầy giáo đã phê : “Vì em quá hiểu rộng biết nhiều nên câu văn có nhiều ẩn ý làm người đọc không phát hiện ra” và thầy cho …2 điểm khi tôi kể lại với bố, ông cười lớn có vẻ thú vị lắm ông bảo: “ Bác Nguyễn Khải làm văn hộ thằng Huỳnh cũng được1 điểm”.Con gái lớn của tôi hồi đi học cũng là học sinh giỏi văn Thành phố có lần làm bài dám chê thơ của một “nhà thơ lớn”là thơ “con cóc” cô giáo vội nói Con ơi biết vậy nhưng đừng nói với ai,cả hai thầy trò mình đều chết.Khi nó kể chuyện này với ông nội, ông khoái lắm và kể ngày nhỏ ông cũng phải làm bài luận tả đức Kim Thượng (tức vua Bảo Đại) lúc này dư luận đang xôn xao vì vụ Ngài lên Đà Lạt đi “mò” bà đầm bị ông Tây bắn què chân,bố tôi đưa luôn sự kiện này vào bài luận.Thày xé đi và bảo đầu tiên là con chết sau đó là thầy cũng chết.

6/Cung Thê trong Tử Vi của bố tôi có sao Cự Môn. “Cự Môn cư Thê đa hoài bất mãn ”.Biết làm sao, Thày Khổng Tử là người dạy lễ giáo cho đời mà cũng phải thay đến 7 đời vợ,chỉ vì ông Cự Môn quái ác đóng giữa cung Thê.

Bố tôi có hai người vợ,mẹ tôi là một cô “văn công”xinh đẹp hát hay.Hai người yêu nhau lắm,mẹ kể ngày còn ở đơn vị ông tiểu đòan trưởng mê bà, ông ta ra điều kiện hoặc là phải lấy ông ta hoặc là xuất ngũ,khi bố tôi nghe tin chạy lên thấy mẹ đang khóc thu dọn ba lô quần áo, ông xông vào tiểu đòan bộ tát ông tiểu đòan trưởng hai cái.Nhưng rồi cũng êm đẹp cả,mẹ kể đám cưới vui lắm do chính bác Phùng Thế Tài làm chủ hôn.Năm 1968 khi bố tôi ở chiến trường ra thì hai người đổ vỡ,chúng tôi còn nhỏ chỉ biết ngơ ngác nhìn mẹ khóc còn bố thì lầm lỳ không nói câu nào.Tôi nhớ một buổi chiều ở nhà số 4 Lý Nam Đế khi cô cấp dưỡng của Tạp chí lên gọi hai bố con xuống ăn cơm thì bố tôi khóc và nói “Bưởi ơi chị bỏ anh rồi”.Sau đó anh em tôi theo mẹ lên Bắc Giang ,mẹ tôi vào làm y tá ở Bệnh viện Huyện gần nhà bà ngọai nơi ba anh em ở hồi sơ tán. Trong lúc dọn dẹp nhà cửa tôi tìm thấy trong đống sách có quyển nhật ký của mẹ ghi lại những kỷ niệm tình yêu của hai người,rất nhiều bài thơ bố làm tặng mẹ và tờ Đơn xin ly hôn trong đó có ghi rõ lý do vì sao hai người bỏ nhau.Chỉ cảm thấy tê dại,cảm giác đầu tiên là thương bố và hận mẹ.Sau này lớn lên hiểu chuyện đời,thấy thông cảm cho mẹ và vẫn kính trọng nhưng tình yêu phải có của đứa con đối với mẹ thì không thể lấy lại được.Thế mới biết có những ấn tượng thời thơ ấu sẽ theo người ta suốt cuộc đời là sự thật chứ không phải mấy ông nhà văn bịa ra.

Do vậy,tuy phải ở Bắc Giang nhưng cứ thứ bảy ,chủ nhật và ba tháng hè là tôi chuồn về Hà Nội với bố,mới hơn 10 tuổi đầu mà tuần nào tôi cũng đạp xe gần 40 cây số từ nơi sơ tán về Hà Nội.Có lần bố nói với tôi : “Bố là người ích kỷ, không làm tròn trách nhiệm với con cái,ngày bố mẹ định ly hôn,bố nghĩ bố phải nuôi cả ba anh em,không để các con ở với mẹ được. Nhưng nếu thế thì bố phải bỏ sự nghiệp của mình.Do vậy bố đồng ý với mẹ không bỏ nhau nhưng hai người phải sống xa nhau một thời gian. Đã trót theo nghiệp này bố cũng mong con cái chịu một chút hy sinh”.Lúc đó tôi định nói có bao giờ bố thử tính một chút đó nó ghê gớm thế nào không,nhưng rồi tôi kìm lại được,lờ mờ cảm thấy sự đáng sợ của nghiệp văn chương.Năm 1972 đứa em út của tôi ra đời giữa những ngày sơ tán tránh B52,tôi vui mừng vô cùng vì nghĩ rằng những rạn vỡ trong quan hệ của bố mẹ cuối cùng cũng đã được hàn gắn.Tôi học khá hẳn lên còn được đi thi học sinh giỏi Toán toàn Miền Bắc.Lại còn học đòi học tiếng Pháp,người dạy tôi là bác Minh Việt,bác là người thường trực của Bệnh viện, ngày mấy lần làm nhiệm vụ đánh kẻng báo giờ làm và giờ nghỉ.Tiếc rằng sau vài tháng bác chuyển đi đâu không rõ.Về sau tôi mới biết bác chính là Phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.Thật kỳ lạ nhiều lúc tôi không thể hiểu nổi một thằng bé vớ vẩn như tôi chả hiểu vì lý do gì mà trên những ngã năm,ngã bảy của đường đời tôi may mắn được gặp tòan những người thật đáng kính trọng.

Nhưng ở đời những sự bất đắc ý thường nhiều hơn,năm 1980 khi đang ở bộ đội tôi nhận được thư bố tôi báo tin hai ông bà chính thức ly dị, cũng chẳng có lý do gì đặc biệt,nhiều người(trong đó có mẹ tôi)cho rằng ông đã có người đàn bà khác nhưng tôi biết chắc rằng không có điều đó.

Trong “Với Xuân Sách” của anh Phạm Lưu Vũ (bố tôi rất thích bài này) có câu “Cách đây hơn hai chục năm,văn nhân thi sĩ Xuân Sách hăm hở xách vợ con hành phương Nam”.Nhiều người phản ứng,thậm chí có bạn đọc còn viết:

“PLV sai rồi không phải XS xách vợ con hành phương Nam mà là ông bỏ tất cả để đi với người đàn bà ông yêu”.Tôi kể những chuyện này chỉ để chứng minh rằng bố tôi là người “bất hạnh”trong tình trường.Dù rằng có rất nhiều phụ nữ thầm yêu ông,có chị còn nói với tôi : Người như bố em,phụ nữ gặp mà không yêu mới là chuyện lạ.Hồi ông mới ở Đồng Nai về Vũng Tàu, một lần tôi đến thăm và hỏi thẳng ông, ông trả lời “Không phải bố bỏ tất cả vì một tình yêu lớn,bố không may mắn có được “diễm phúc”như vậy,nhưng cô ấy được hơn là những điều bố nghĩ về cô”. Đến tận bây giờ thật tâm tôi vẫn biết ơn cô vì những tháng ngày ấy dù nó thật ngắn ngủi.Và tôi cũng khó có thể tha thứ nổi cho bà vì những gì bà đã gây ra cho bố tôi.Tôi biết tính ông,cái gì cũng lẳng lặng chịu đựng một mình.Năm ngóai khi tôi thật sự lo lắng muốn đón ông ra Hà Nội,khi hai bố con gặp nhau ở Sài Gòn ông vẫn bảo “Con yên tâm,vẫn còn nhiều người yêu bố và bảo vệ bố lắm” ông cười: Con nhớ không,chú Trần Quốc Vượng tính cho bố sống đến năm 83 tuổi cơ mà.Rồi ông hạ giọng: “Đợi một,hai năm nữa con đỡ khó khăn thì bố sẽ ra Hà Nội,bố hứa”.Tôi tự xỉ vả mình thậm tệ bao nhiêu đi nữa cũng không thấy nguôi ngoai,giá như lúc đó tôi cứ kiên quyết đưa ông ra Hà Nội thì đâu đến nỗi,mọi sự muộn mất rồi.Hôm đưa ông ra Hà Nội vào Bệnh viện Hòe Nhai, câu đầu tiên ông hỏi tôi : Đây là đâu hả con?Hà Nội bố ạ! Ông đòi tôi đỡ dậy để ông nhìn qua cửa sổ.Tôi chỉ con phố và nói: Bố nhìn đi, chợ Hòe Nhai này.Bố còn nhớ ngày xưa hai bố con thuờng ra đây mua thức ăn về nấu cơm không. Ông gật đầu rồi mới yên lòng nằm xuống giường.

Lần thứ hai trong đời tôi nhận được thư của cô Tú (Vợ sau của bố tôi) chỉ vẻn vẹn vài dòng : “Các cháu mỗi người viết một bản ủy quyền nội dung : tôi là….Là con của ông Ngô Xuân Sách tôi ủy quyền cho em trai tôi là Ngô Nhật Lê cùng với bà Phạm Thị Thanh Tú vợ hợp pháp của ông Sách đồng sở hữu căn nhà số….TP Vũng Tàu tiến hành bán căn nhà trên để thực hiện quyền thừa kế.Cô còn viết :Các cháu phải chứng minh là con của ông Ngô Xuân Sách thì mói cùng người đồng sở hữu bán nhà được.Khi tôi đang đánh máy những dòng này đứa con gái thứ 2 của tôi nói: Bố để con chụp ảnh thư của bà rồi post lên chứ viết thế này ai chẳng bảo là bố bịa đặt.Lá thư không ký tên không đề ngày tháng nhưng dấu Bưu điện là ngày 12-7-2008 (Bố tôi mất ngày 3-6-2008). Sau 100 ngày bố, tôi vào Vũng Tàu, tôi có tới gặp cô và nói : Cháu rất buồn khi cô tính chuyện bán nhà sớm thế, nhưng không quan trọng.

Cháu sẵn sàng viết giấy từ chối quyền thừa kế căn nhà này cho cô.Nhưng số bản thảo của bố,trước khi mất bố cháu có dặn phải bảo quản,giữ gìn và cháu muốn xem những thứ đó.Cô trả lời làm gì có bản thảo nào đâu,một chữ cũng không có.Bố viết gì cô phải biết chứ(Vậy mà khi bố tôi đang nằm trong bệnh viện có lần cô gọi điện cho tôi nói đang niêm phong các bản thảo,thư từ chờ tôi vào nhận.Tôi nhìn căn phòng của bố tôi đã từng sống ngót nghét 20 năm,cái máy chữ cũ kỹ,vài cuốn sách đã bắt đầu mục nát lăn lóc dưới sàn,một cái túi nilon to bên trong có cái chăn bẩn thỉu vứt ỏ góc nhà.Như hiểu cái nhìn của tôi cô nói : đấy là chăn và gối của bố, cô đã nhắn Lê xuống lấy mang về Sài gòn mà nó chưa xuống.Rồi cô nói thêm : Còn những thứ này cô phải giữ lại vì thiếu hơi hướng của bố cô sống làm sao nổi, cô và bố yêu nhau lắm cả Vũng Tàu này ai cũng biết. Bao giờ cô chết thì cô mới giao cho cháu hoặc cho các con cô.Tôi điên tiết nói gì đó mà cũng không nhớ nữa thì cô gào lên : “Anh ơi,anh về mà xem này con nó vào đây,em không mong nó yêu thương em nhưng em cần anh bảo nó đối xử với em công bằng”.Tôi lợm giọng bỏ đi mặc cho bà gào ở sau lưng : Đăng ơi ở lại đã, cô cháu phải nói chuyện với nhau cho rõ ràng.Buồn thật, tôi nhớ lại những nhận xét của các bác,các chú về bà khi bà và bố tôi mới quen nhau. Đàn bà thật đáng sợ,tôi nhớ lời ông bố vợ tôi thường chửi bà con dâu trưởng:

-Mày là con Đát Kỷ làm hại Trụ Vương

Anh hùng chỉ bại dưới tay mỹ nhân.Về cung Thê của tôi Sư phụ nhận xét : “Hiếm có người phụ nữ nào trên đời chiều con bằng người này, nhưng khi nó giở chứng thì chấp ba cái đầu như con cộng lại”. Lạy thày! Ba cái đầu như con còn chưa là cái “đinh” gì ạ.






















Câu đối Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh

Kính viếng nhà thơ Xuân Sách













































Nguyễn Trọng Tạo & Xuân Sách



















\



















 







Trở về 





  






 





MDTG là một webblog "mở" để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả. 

MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.


[]

-------------------------------------
trích từ blog Phan Nguyên
---------------------------------------

















0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ