' Vương Đức Lệ, thơ tình của tuổi trẻ' / Cao Thế Dung -- blog Lê Ngọc Trác
thơ tình của tuổi trẻ Vương Đức Lệ [ i.e. Lê Đức Vượng 1937-2008 usa ] tập thơ xuất bản ở Huê Kỳ V Ư Ơ N G Đ Ứ C L Ệ Tên thực: Lê đức Vượng, sinh 1937 tại Hà Đông. Cựu sinh viên Đại học Luật & Văn khoa saigon. Nguyên giáo sư trung học. Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961. Đã có thơ đăng trên các tạp chí" Bách Khoa, Bông Lúa, Thời Nay, Chỉ Đạo, Văn Hữu, Tầm Nguyên .. - Cộng tác với các báo Tân Dân, Dân Chủ, Tự Do... Đã xuất bản: -" Hoa Mười Phương ( tuyển tập thơ cùng 10 tác giả- Saigon 1959 . -" 40 bài thơ" (in chung với Mai Trung Tĩnh. -" Đường Lên Thiên Thai" ( 1962). -" Tình thơ Vương Đức Lệ" ( 1969) v.v... - định cư tại Huê Kỳ năm 2000 và qua đời 2008. Vương Đức Lệ bước vào nghiệp thơ cùng với Mai Trung Tĩnh trong một thi tập in chung " 40 bài thơ" . Cũng ở thi tập này, 2 nhà thơ được giải thưởng văn chương toàn quốc ( 1961). Thơ của ông được nhiều thanh niên nam nữ mến mộ, nhất là giới học sinh- vì một lẽ dễ hiểu, thơ Vương Đức Lệ là thơ tình đơn sơ và nhật cảm một cách nồng nàn. Giọng thơ của ông như tiếng thì thầm của đôi lứa trong thiên cung mơ ước: Sao em không về ? Hay đường xa trắc trở Cho đêm dài hoang, đèn đỏ, đèn xanh Sao em bỏ đi ? Sao em không về thành phố ? Sương lam nhòa cửa sổ mịt mù sao Anh bỏ nhà đi ngồi lì trong quán nhỏ Nghe tim mình sầu, mình sầu bơ vơ Mộng ước ngày mai trở thành xưa cũ Người em áo xanh, không trở lại bao giờ ? .......................................... Sao em bỏ đi ? Sao em không về ? Để mình anh gục mặt Buốt dại hoang hôn tẻ ngắt Hoài công anh tìm trong đáy cốc mê si Lời nói vu vơ cử chỉ vụng về Dang dở mầu chiều vương theo khói thuốc Hơi thở em len trong gió loạn buồn tê Cho linh hồn sầu đường xưa huyền hoặc Thánh thánh linh thiêng ôm trĩu nặng vai gầy Kiếp sống hải hồ mộng vỡ theo vần tay... ( Sao em không về ?) Với từ điệu diễm tình và một ý thơ phong hoa, Vương Đức Lệ đã tạo cho riêng ông một bản sắc thơ trong một khả quan của nghệ thuật thơ. Tôi nói khả quan vì thơ Vương Đức Lệ phổ biến thì phổ biến thật, song vẫn thiếu chiều sâu- vì sáng tác chưa thật đều tay. Nhưng thơ Vương Đức Lệ đặc biệt là truyền cảm và hơi thơ đi vào tâm hồn nhẹ như tơ trời trong một sớm mai mùa hạ. Đọc thơ ông, ta sẽ dễ dàng mê say vỉ bị quyến rũ một cách bất ngờ. Từ " 40 bài thơ" đến" Đường Lên Thiên Thai" - Vương Đức Lệ trở thành một khuôn dáng thơ mang theo mộng ước của tuổi trẻ trong những cảm xúc bồng bềnh, trôi nổi. Đã có rất nhiều người từng chép tay thơ Vương Đức Lệ trên vở học trò, từng ghi đậm thơ ông trên những lá thơ tình mầu xanh. Chẳng hạn : Hãy ngả đầu em lên vai anh Nghe nhạc thần tiên suối chảy Hãy đặt tay em vào tay anh Buổi mai chờ nắng dậy Đừng khiến mắt sao buồn Pha lê vỡ long lanh Em hãy ngoan trong vòng tay anh Truyền cho nhau hơi thở ............................... Hãy ngả đầu em lên vai anh Cuộc sống hôm nay vừa dậy thì Hãy đặt môi em lên môi anh Mùa xuân vừa sống lại Ngoài vườn hoa cỏ xanh Thành phố chờ khai hội Bầy trẻ thơ mong tiền mừng tuổi Tương lai trong vòng tay Trái ngon vừa tầm tuổi Thôi tóc tang hờn tủi Môi cười thêm ngất ngây... ( Mầu xanh ) Lời đẹp, ý thanh và hình ảnh chọn lựa vốn là đặc tính thơ Vương Đức Lệ. Thơ ông không có gì tân kỳ, tức là thiếu cái mới cho ngôn ngữ trong cách cấu tạo thơ. Ý thơ cũng không đem lại một nét lạ nào, song vẫn tươi mát và như tiếng nói tâm tình bộc lộ một cách hồn nhiên: Mưa đã vào Thu, tháng 7 mưa, mưa buồn chi em ? Khung vai nghiêng bóng tối trời ưu phiền Một khoảng mây cao sương mù thấp xuống Vùng cây xưa cúi đầu - Tôi buồn lỡ quên Thành phố đăm chiêu ủ dột những hàng đèn Vỉa hè vắng tanh, hành lang này mệt lả Ôi mộng điêu tàn, hồn ru triền miên Mưa đã vào Thu, Saigon buồn, em buồn không em ? Loài cây sao đêm đổ là bước anh tìm Anh về ĐAKAO lối mòn bóng tối Từng con đường, tưng con đường, trời mù sao đêm . ( Tiếng thu - trong ' Đường Lên Thiên Thai') Làm thơ đối với Vương Đức Lệ xem như một chuyện dễ dàng, nên thơ ông tuy cầu kỳ trong cách sử dụng ngôn ngữ và diệu vợi trong âm thanh ; nhưng vẫn tự nhiên, thành thực. Tôi nghĩ rằng dù ở khuynh hướng nào, dù kích thước ra sao, điêu quan hệ cho thi nhân là phải biết diễn đạt một cách thành thực. Có như thế, thơ mới đạt được phần tinh khiết cho thơ. Nếu thiếu tự nhiên và thành thực - thì thơ sẽ không còn là thơ. Phần ý tưởng trong thơ, tuy cân thiết, nhưng chỉ là phụ thuộc. Yếu tính của thơ - trước sau vẫn là hồn thơ và thể chất thơ trước đã. Hồn thơ- mới là động cơ chính yếu để chuyên chở và làm tỏa rộng chất thơ qua ngôn ngữ và hình ảnh. Từ hình ảnh và ngôn ngữ , ta mới tìm được phần ý tưởng, vốn từ bao giờ cũng ẩn giấu trong ngôn từ và hình ảnh của thơ. Ý tưởng bao giờ cũng là phần CHÌM trong chất thể sáng tạo của Thi ca. Khi đọc thơ Vương Đức Lệ là tìm vào thế giới phiêu diêu của hồn thơ và thể chất tươi mát của hình ảnh ngôn ngữ thơ. Ngôn ngữ trong thơ ông chỉ là tiếng nói thông thường mang tâm sự của người say sưa theo đuổi tính ái. Cho nên, hình ảnh thơ Vương Đức Lệ cũng chỉ là hình ảnh thông thường trong đời sống của khách phong lưu. Nếu tìm trong thơ Vương Đức Lệ cái phần tư tưởng trong lẽ nhân sinh, vũ trụ , thân phận con người - ta sẽ thất vọng, vì ông là một nhà thơ ngại ngùng suy tưởng. Với ông, cuộc sống trở nên giản dị, theo con mắt nhìn lạc quan. Ông không bao giờ muốn để tâm phiền lụy đến bất cứ một chuyện gì - ngoài tình yêu. Và chỉ có tinh yêu mới là điều quan trọng - mà tình yêu đối với ông- tuy tha thiết, nồng nàn tựa hồ như lẽ sống của ông- nhưng nó cũng dê tan biến. Khi tình yêu đến, khi tình yêu đi... lúc nào thơ Vương Đức Lệ cũng vẫn tươi tắn. vẫn bay bổng mang theo chân dung cánh bướm của khu vườn đầy hoa . Vì thế mà thơ ông không khắc khoải, dày vò, không ủ ê - dù tình ái có nửa chừng lỡ dở : Buổi sáng trời trong anh đưa em đi học Chim chóc trên cây chúc lời ca lành Năm ngón tay đan năm ngón tay mời anh mông ngọc Nhạc vàng vừa lên cung xanh Ban mai nắng lên những con đường thành phố Từng ô cửa mở Buồng phổi anh thơm ngâ ngất khi trời hồng... Anh hát tiếng chim non, em ca lời thảo dã Hạnh phúc tròn tay anh Vườn Thượng đế nhiều hoa thơm trái quả Vị ngọt bằng môi em Và lành hơi em thở Bừng nét nhạc xanh xanh Tiếng hoan ca của những người tha hương trở về từ miền đất cũ Hành lý tròn vai trên đường về thênh thênh . ( 17 - ' Đừong Lên Thiên Thai' ) Một bài thơ mang theo ánh sáng của thanh xuân và như lời tình tự của chim khuyên - quyến rũ ta như người khát nước nhìn trái cam tươi. Thơ Vương Đức Lệ thật tươi trẻ ! Tuy nhớ thương và cũng từng đau khổ, nhưng khó tìm cho ra trong thơ ông cái nét âm u của chán chường, tuyệt vọng. Nhà thơ không quá lạc quan yêu đời , nhưng cũng không bi quan vàng võ- và như thản nhiên chấp nhận bản chất của cuộc đời - vốn vui ít, buồn nhiều. Từ đó, ông vẫn thảnh thơi theo gót lãng du , tản bộ trên đường trần gian- và thơ ông trở thành tiếng ca của người khách lãng du kia, tìm tình yêu như đi tìm trăng thu - đi vào đời như dạo chơi trong công viên, thỉnh thoảng dừng chân lại, khi chợt thấy cô đơn, ngơ ngác trong cô đơn - rồi từ đó chìm sâu vào cơn mộng: Đỉnh buồn lên ngọn cây cao Bướm tiên lạc lối bay vào phố xưa Hồn hoang cung mộng dâng hờ Mây xa chiều xế rêu mờ dấu chân Nghe cô đơn vọng tiếng thầm Niềm đau từ độ thanh xuân trở buồn Hoang vu ai chết vào hồn Vóc gầy mai một bước dần tịch liêu Vàng bay xao xác đường chiều Giã từ tuổi mộng trời theo dáng sầu Ngõ về tức tưởi niềm đau Buồn so vai nhỏ đưa vào điệu thu Phương xa ảo giác khơi mù Hồn xuân gót lả đôi bờ lạnh tanh... ( Hiện xưa - ' Đường Lên Thiên Thai') Tình ý và điệu thơ trong thơ Vương Đức Lệ đẹp một cách bén nhậy, dễ dàng thâm nhập vào cảm quan khách yêu thơ trong những phút thanh thản, tiêu sầu. Tình tự trong thơ ông là tình tự của một tâm hồn nghệ sĩ, tạm đành thoát ly những ràng buộc của sự sống, không ưu tư cuộc đời., không phiền lụy vì như không liên quan- và ông sống với đời như đi trên mây, để đuổi theo một ái tình nào trong mộng. Lối sử dụng ngôn từ một cách cầu kỳ của Vương Đức Lệ làm người ta liên tưởng đến Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương. ta cùng thưởng thức : Em buồn trên gối thêu Lệ nhỏ hoen khung chiều Thềm hoang nhiều lá đổ Trắng trời thu cô liêu Trái sầu thêm chín đỏ Ủ dột miền đài trang Rét mướt hồn cây cỏ Mưa nhỏ giăng từng hàng... ( Mây vàng - ' Đường Lên Thiên Thai'). Ngôn từ như thế vừa diệu vợi, vừa có vẻ làm duyên văn tự - và nó đã làm cho thơ Vương Đức Lệ mất đi một phần bản chất đơn sơ - và tự nhiên vốn là bản chất chung thơ Vương Đức Lệ. Nếu đi tìm một nhà thơ của tình thơ và tươi mát trong nét hào hoa của tuổi trẻ-thì không còn ai hơn Vương Đức Lệ, vì thơ ông đã rất trẻ từ ngôn từ và chan chứa dư âm của cung bậc trong một tâm hồn trẻ trung. Tôi nói là thơ Vương Đức Lệ là thơ tình của tuổi trẻ- vì thơ ông vốn sẵn bản chất tươi vui, trong nhẹ. Toàn bộ thơ ông không có nét thảm sầu nào, không có giọng ai oán nào... Và thảy đều chỉ thoảng theo cơn mộng của tình. Bài" Thuở tôi buồn" là một dẫn chúng tiêu biểu cho không khí tươi trẻ trong thơ Vương Đức Lệ- đó là cơn tình buồn : Hạnh phúc tôi, Em đành tâm đốt cháy Điếu thuốc vơi dần tuổi trẻ đa mang Khói thuốc tan đi, mấy trắng lên ngàn Tôi vẫn là tôi chưa tròn tuổi mộng. Tôi muốn hủy thiêu niềm sầu cuộc sống Cát bụi này xin trở lại hư vô Giấc ngủ chiều tim tôi vừa kinh động Thân thể gầy rữa mục bãi hoang sơ Tôi còn tôi, muốn nghe mình độc thoại Vì sao kia vừa rớt cuối phương trời Em xa rồi tôi nghe sầu khắc khoải Tiếng tơ lòng âm điệu mỏi buông lơi Nghe đau thương thuở luân hồi tiếng nấc Lời xênh ca loài đá sỏi vô sinh Bỗng thân tan miền khô cằn mộng ước Nghe mình cười réo gọi mãi thần linh ! Hạnh phúc tôi, Em đành tâm hủy hoại Thuở tôi buồn tình aí mới lên ngôi Điếu thuốc tàn dần tôi xin tiếp nối Lời ca sầu vị đắng mới dâng môi ! ( Thuở Tôi buồn - trong' Tình thơ V.Đ L.') Thi tập ' Tình thơ Vương Đức Lệ' dày 208 trang, khổ lớn - là thi tập thứ 4 của Vương Đức Lệ- bao gồm những bài thơ sáng tác trong khỏang 5 năm. Thi tập này không có gì mới lạ , và đổi khác, so những thi tập trước. Vẫn một giọng tình thơ trong, mát dịu, như bài " Thuở tôi buồn" chẳng hạn. Trước sau- thơ ông đều giữ được nhạc tính - một thứ nhạc êm và nhẹ như lời ru thoảng - âm thanh không sắc, nhưng trầm, tiết điệu lên cao, xuống thấp theo cung bậc trong rung cảm của một tâm hồn bình thản không có sự náo động hoặc đam mê tột độ, bất thường !. Bài" Vũng tối" dưới đây, có thể nói là một thể cách đổi mới trong tiếng nói thơ của Vương Đức Lệ. Tuy ray rứt, tuy tâm thể bất an, tuy một lòng tin cho một niềm tin nào đang rạn vỡ...- song, ý thơ vẫn nhẹ bồng, nhịp điệu thơ vẫn thoảng tiếng ca bi hoài của cơn tình mộng trên thảm xanh của thiên đường tuổi thơ vừa mất - nhưng còn dư vang theo viễn ảnh: Từ ở đó đất trời không mùa xuân Niềm tin ta tù tội ! Thượng Đế mất hay còn? Từ đó ta biết chẳng chết vì cơ hàn Mà chết vì đau tủi Người bảo mùa Xuân ta hát, ta ca Không ! Lời ta rên siết đó Vũng tối chập chùng hồn ta ngủ trọ Bạn hữu ngoài kia thương ta oán than Bỗng nghe tiếng cười trên môi người ghê tởm Ta kinh hoàng Ta muốn vùng bay Tê đôi cánh mỏi Những trấn song và những trấn song! Bạn hữu ta kìa mới tung bay cao Các ngươi trông theo, trông theo thèm khát Những muốn vùng trốn thoát Ta ngó trời, bốn phía lặng thinh Từ ở đó, ta không đói hạt kê vàng Chẳng khát thèm bình nước trong Ta đớn đau vì xúc phạm Ta điên cuồng ta mất mùa Xuân Ta mất tự do - ta mất cuộc đời Khoảng trong xanh ta bay thôi không mong gì giang cánh Khu vườn cây hoa trái từng mùa. Ta mong gì thấy nữa ! Từ ở đó ta không bao giờ làm tổ Ô ! chỗ cọng rác thô sơ Quanh cửa tổ đâu cành xum xuê lá ? Đâu gió hiền ban mai ? Đâu mùa xuân nắng ấm ? Ta thức giấc nghe tiếng các người cười nói gớm ghê Lòng ta sầu, lời ta không muốn ngỏ Những con mắt tò mò nhìn lông cánh ta trầm trồ Ta muốn truyền bay khung trời chưa sáng rõ Ta cuồng điên bốn bức tường ngăn Ta đã chết từ khi ta ở đó ! ( Vũng tối- trong' Tình thơ VĐL' Nếu Thơ là phản ảnh trung thực cho tâm hồn và đời sống của thi nhân- thì thơ Vương Đức Lệ là tâm hồn và đời sống của ông - môt con người, như lúc nào cũng vô tư, vô lự, và xem đời như một cuộc vui! Nhà thơ đứng trong đó thưởng ngoạn và đuổi theo từng con mắt trong xanh của một giai nhân nào đó trong từng cơn tình mộng. Thơ Vương Đức Lệ là cơn mộng vậy. Cơn mộng của khách tình si bâng khuâng giữa cánh đồng bao la của tình ái, đầy những lời chào đón nồng nàn. [] CTD. ( trích- Văn học hiện đại / Thi ca & Thi nhân / Cao Thế Dung- tr.229 - 238). |
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ