tô hoài - kỳ 1- hồi ký
nguyễn đăng mạnh-
hà nội 2008.
tô hoài, với quan niệm
con người là con người *
hồi ký nguyễn đăng mạnh
Tôi tiếp xúc vơi Tô Hoài rất sớm. Từ những năm 60 của thế kỷ trước. Nhưng mãi đến năm 2000, tôi mới viết được một bài về ông. Tôi, trước sau vẫn thế. Khi viết về một nhà văn nào đó, mà, chưa hiểu tư tưởng chi phối một cách có hệ thống sự nghiệp sáng tác của ông ta, thì, tôi không thể viết được. Về Tô Hoài, tôi cứ nghĩ mãi, không biết tư tưởng của ông là gì. Nhiều tác phẩm của ông tôi thích, nhưng, không tìm ra một tư tưởng chung. Tư tưởng Nguyễn Tuân là lòng yêu nước, tinh thần dân tộc gần với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Nam Cao là từ nỗi đau đớn trước tình trạng con người không giữ nổi nhân tính, nhân phẩm, vì những miếng cơm manh áo, và, cái chất hèn, chất nô lệ đã thấm vào rong máu không biết từ kiêp nào. Xuân Diệu là niềm khát khao giao cảm hết mình vời cuộc đời trần thế này. Còn tư tưởng Tô Hoài là gì? Tôi lúng túng quá ! Trong khi đó, Xuân Diệu có lần nói với tôi : " Tô Hoài nó chẳng có tư tưởng gì cả. Nguyễn đình thi còn co tư tưởng, chứ Tô Hoài chẳng tư tưởng gì." Tôi lại càng hoang mang. Một nhà văn cỡ như Tô Hoài không có tưởng. Vô lý
quá !
Hồi tôi biên soạn cuốn Tổng tập văn học Việt nam (tập 30A+ 30B) vào khoảng 1979- 80, tôi có đến Tô Hoài mấy lần. Tôi có một anh bạn, tên Phan ngọc Thu, phụ trách trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội & nhân văn của trường đại học Đà nẵng. Anh đứng ra tổ chức các lớp học bồi dưỡng chuyên môn cho các giào viên PTTH [phổ thông trung học]chuyên văn ở miền trung, miền nam. Anht hường mời tôi và Tô Hoài vào giúp. Vì, thế tôi có dịp gặp Tô Hoài nhiều lần, khi ở Đà nẵng, khi ở Bến tre, hay Long xuyên. Tôi để ý thấy Tô Hoài , ở đâu cũng thế - mua hết các báo chí hàng ngày để đọc. Cả báo trung ương và báo địa phương. Đọc cả những thông tin vặt vãnh linh tinh. Ông rất chăm đọc báo, nhưng không thích xem ti-vi, phim ảnh- dù là phim Vợ chồng A Phủ do ông soạn kịch bản.
----
* mới qua đời ở Hà nội ngày 6-7- 2014. (BT)
Ở khách sạn Long xuyên, có một cái núi non bộ lớn, người ta nuôi cá, khỉ, hổ, cả bồ nông, cò vạc, cứ xích chân, xích cổ [chúng] vào núi giả sơn. Tôi thấy Tô Hoài đứng hàng giờ quan sát các con vật, và, thỉnh thoảng lại phát hiện ra một điều gì lạ ở chúng, [chẳng hạn] con khỉ biết chơi trò thủ dâm. Thì ra, Tô Hoài thích quan sát tỉ mỉ, phát hiện những cái lạ ở người, hay những con vật tầm thường quen thuộc quanh ta. Cho nên, ông viết nhiều về phong tục của người dân Nghĩa đô, quê ông. Và, trong thời kháng chiến chống Pháp, công tác ở Việt bắc, ông thích viết về phong tục độc đáo của những dân tộc H'Mông, Mán. Phong tục, theo tôi, chính là những chuyện lạ đời thường của các dân tộc. Ông phát hiện ngưới H'Mông sin h hoạt có nhiều cái rất tây. Váy áo như đầm, gọt khoai, gọt củ, quay ngược lưỡi dao vào trong. Ăn bánh bột ngô để nguội hàng tuần như người tây, ăn bánh mì, dùng thìa gỗ, hoặc, bốc, không dùng đũa, theo đạo Tin lành. Ông đọc sách của Sabina,nói, đi từ phương Tây, qua đông Âu, bắc Á- rồi bị dồn xuống phương Nam, Thuyết của tàu, cho người H'Mông, vốn ở vùng Dương tử di cư xuống. Tô Hoài cho thuyết của Tây đúng hơn. Người Mèo rất khát tình, bị xúc phạm là dúng lá ngón để tự tử. . Nhà có con gái đẹp, thanh niên kéo đến, quấy nhiễu đông quá, có khi ông bố đem súng ra bắn để giải tán. Thờ Tây [thống] sứ Châtel, thu tuyển hoa hậu, chỉ nhắm con gái H'Mông, gái Mường, gái Mán.
[Khi] Tô Hoài ở Hà giang ,đã gặp 2 người đàn bà từng thi hoa hậu ở Hà nội ở thời pháp thuộc. Người Mán khi ăn xong, cả nhà tắm nước nóng, và lại mặc quần áo cũ, đi chân đất. Về chuyện chợ tình Sapa, Tô Hoài cho biết : sự thực đối với người Mèo, người Mán, chợ là nơi ăn chơi, nơi gặp gỡ người quen, trong đó có chuyện trai, gái- nay ta biến thành chợ tình. rất nhảm [nhí] !
Tô Hoài thường tả loài vật rất kỹ, thấy ở chúng có lắm phong tục lạ như người vậy thôi. Sở trường tả lòi vật, ở To Hoài, xét ra cũng nằm trong cảm hứng phong tục. Mà hình như, về phương diện này, ông cũng chẳng phân biệt người và vật. Trong tập truyện O chuột, ông viết về toàn loài vật quanh ta. Nhưng lại xen vào đó một truyện về người (Cu Lặc). Truyện này, Nguyễn minh Châu rất thích. Ông kể chuyện Cu Lặc không khác gì con vật. Vợ chồng gặp nhau, lấy nhau, do bản năng tình dục. Và, họ bỏ nhau, vì, cả hai ăn khỏe quá, không sống với nhau được.
Tô Hoài khác với phần lớn [người làm văn nghệ là] không những công việc hành chính, những công việc[ tưởng như] vặt vãnh không chút văn chương. Ông [vẫn] nhận đủ việc, từ đại biểu quốc hội, ban chấp hành hội Nhà văn trung ương,[tới] chủ tịch hội Văn nghệ Hà nội, kể cả làm tổ trưởng dân phố. Việc gì cũng làm, từ tuần tra ban đêm, cũng đôn đốc triệt để đến từng gia đình kiểm tra 'hố xí 2 ngăn'. Về hưu, ông không chỉ sinh hoạt ở chi bộ, ở cơ quan hội nhà văn , như hầu hết nhà văn cao tuổi, mà sinh hoạt cả với chi bộ địa phương. Và, ông không muốn người ta biết ông là nhà văn, ông lại thích nói chuyện với mọi người như người thường nói chuyện với người thường về chuyện thường [ngày].
Tôi để ý đến cặp mắt của ông, dài lại hẹp. Gọi là mắt ti hí, mắt như thế lá tinh quái lắm.- cái gì cũng bie6`t, không qua mắt được ! Mà, toàn phát hiện những điều ngộ nghĩnh, buồn cười.- và diễn đạt bằng một vài từ rất gọn và đích đáng, Thí dụ, ông cho Nhật kí trong tù/ Hồ chí Minh chỉ là một tập thơ kêu oan. Kể ra, cũng đúng :
Ta người ngay thẳng lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
ĐƯỜNG ĐỜI HIỂM TRỞ
Hôm nay xiềng sắt thay giây trói
Một bước leng keng tiếng ngọc rung
Tuy bị tinh nghi là gián điệp
Mà như khanh tướng vẻ ung dung
ĐI NAM NINH.
Những bài thơ như thế đúng là thơ kêu oan Nhưng, coi Nhật kí trong tù chỉ là tập thơ kêu oan thì quả là đã tầm thường tập thơ của cụ Hồ.
***
]Tô Hoài] gọi Phạm tiến Duật là 'thằng lái trâu', khi anh ta nói năng, khua môi múa mép, Chế lan Viên là thằng 'nặc nô' của Đảng. [Tô Hoài] còn phát hiện ra rằng, ngày nào Huy Cận cũng ra trụ sở Liên hiệp v8n nghệ (51 Trần hưng Đạo), tuy chẳng có việc gì, chỉ cốt được ăn một bát phở miễn phí . Huy Cận rất tham, đi đâu cũng vơ vét, càm cặp. Tô Hoài kể lại, có một lần ông và Nguyên Ngọc tình cờ gặp Huy Cận ở sân bay quốc tế Mạc tư khoa, tư dưng Huy Cận lân la đến trò chuyện thân mật với Nguyên Ngọc. Và, Tô Hoài bảo Nguyên Ngọc lảng đi, vì, " nó sắp gạ ông xách đồ cho nó đấy!" Quả nhiên sau đó thấy Huy Cận 2 tay xách 2 cái cặp nặng, lại buộc thêm một cái thùng giấy lệt xệt ở đằng sau.
Buồn cười nhất , Tô Hoài phát hiện ra Nguyễn xuân Sanh bị Tố Hữu ghét, vì [phê phán] chỉnh huấn nhanh quá, không tuân thủ quy luật' đấu tranh tư tưởng thì phải lâu dài gian khổ chứ'. Còn Hoàng cầm, thì, hồi bị tù- hệt hạn tù, người ta cho ra, lại xin ở thêm để viết cho xong bản kiểm thảo. Tộ Hoài cho rằng, bút hiệu Thợ Rèn, sở dĩ nổi tiếng [nhanh], bởi lúc đầu người ta tưởng là bút danh [khác của Hồ chủ tịch]. [Đối với] Thanh Tịnh, thì, ai đến chơi, [ông ta] cũng đem đồ cổ ra khoe, nhưng thật ra, Thanh Tịnh' cứ tán ra thế thôi, nhiều cái xuất sứ là bê từ Bát tràng về. Và, Bùi Giáng [miền Nam] thì mê Kim Cương, chỉ ước khi chết đi, được Kim Cương đái lên mồ. Tới Trương Tửu [Nguyễn bách Khoa] là tay huênh hoang , thế thôi, thực chất chỉ là 'trốtkít' mồm. Mấy ông Chế lan Viên, Hoài Thanh, Đồ Phồn, Huyền Kiêu, thì, tự thấy ' trước cách mạng có tội nên ra sức nịnh đảng' [CS].
Có những chuyện, có lẽ chi có Tô Hoài, mới đi kể cho người khác [nghe]. Vì là người rất nhếch nhác, rất bẩn- mà là câu chuyện của bản thân ông [ta]. Tôi nhớ hồi ở khách sạn Traphaco ở Đà nẵng, tự dưng ông kể với tôi chuyện ấy. Chứ tôi có hơi đâu mà hỏi, " Hồi hoạt động ' văn hóa cứu quốc' ở Hà nội bị lộ, nó bắt 4 người : Tô Hoài, Nguyễn đình Thi, Nguyễn hữu Đang, Như Phong- gia đình có tiền chạy án, nên được tha. Tôi và Nguyễn hữu Đang nhờ thế, cũng được tha . Trước khi thả ra, nó giam chúng tôi ở nhà lao Nam định, 4 thằng bị giam chung một phòng. Ngồi buồn tình, 4 thằng tụt quần ra, xem 'cái ấy' của thằng nào to ? Của [Nguyễn đình]Thi dài đuồn đuỗn, như quả chuối tiêu,[to nhất đám]. . Nguyễn hữu Đang đứng hạng 2, Đang không chịu vậy, vì ,cho rằng' cái ấy tuy ngắn' mà lại to hơn nhiều' [ so với Thi]. Tô Hoài và Như Phong đứng hạng bét."
Đấy, gặp Tô Hoài chỉ 1, 2 buổi là biết đủ mọi thứ chuyện linh tinh như thế. Và, nghe ông ta nói một chặp, thấy con người ta, nói chung đều tầm thường cả thôi, đều là người thường mà thôi. Mà cuộc đời không có ai là thần thánh, [nghĩ thế]thì cũng vui, và càng vui, [có sao đâu?]. Tội chắc Tô Hoài nghĩ như thế đấy, vì khi kể những chuyện ấy, ông ta có vẻ lấy làm thú vị.
Nhận xét văn của người khác, Tô Hoài cũng thường phát hiện rất tinh, [ấy là] về nhược điểm. Thí dụ : văn Anh Đức là thứ văn cải lương, có lúc viết "anh hùng" là "hùng anh". Nguyễn Khải xây dựng nhân vật, theo lối ghi chép rất sáng tạo, nhưng văn Nguyễn Khải vậy mà chưa thoát được lối biền ngẫu. Nguyễn Đình Thi là anh sinh viên rất xa đời sống, nên mắt không thể chọc thủng được tờ giấy, để nhìn vào hiện thực. Thi tả cảnh chùa [lại có] cây bạch đàn, xưa làm gì có cây bạch đàn ở chùa! Thơ Bùi Giáng, theo Tô Hoài, cũng là một thứ thơ Bút Tre. Thơ Hoàng Cầm như là thứ vàng mã trang kim. Một thứ thơ trang sức ' hoa lá cành' sơn son, giát vàng, thực chất thì không có gì. Phan cự Đệ, Hà minh Đức viết văn học sử, tuy có tài liệu đấy, nhưng không có hồn. Lưu trọng Lư giờ 'hết thời' rồi. Tài năng cũng chỉ có một thời thôi. Thơ Huy Cận và thơ Tố Hữu, giờ chỉ còn là ' thơ thù tạc'. Vậy mà Huy Cận cứ tuyên bố, " Chưa bao giờ tôi sáng tác dồi dào như bây giờ." Tô Hoài biết rõ cả lai lịch Bút Tre, tên thật là Đặng văn Đăng, sáng tác trước cả Tô Hoài , ký tên Lục y Lang, Chàng áo xanh, có bằng tú tài tây. Bút tre định'lăng xê' một kiểu thơ, sử dụng rộng rãi 'enjambement'- chứ không phải anh vô học làm thơ. Tô Hoài đọc cả những cây bút trẻ. Ông ta cho bọn này có học. Viết được. Nhưng thiếu một cái gì đó. Thiếu chữ của riêng mình, thiếu phong cách. [Như] Hồ anh Thái, viết mới đấy. Nhưng rắc rối, khó hiểu. Chưa thấy hay. Bọn trẻ, nói chung , rất kiêu ngạo. Nguyễn huy Thiệp giỏi viết [về] cái ác. Phạm thị Hoài rất trí thức, đồng thời lại [viết văn kiểu] dân dã ...
Một điều lạ - Tô Hoài biết cả những chuyện đời tư, rất riêng tư, thậm chí, cả những chuyện thầm kín của người ta. một cách rất cụ thể, Biết có đầu, có đuôi, có ngành, có ngọn, nói ra vanh vách. Ông ta nói,' do phụ trách đảng ủy viên văn nghệ, nên biết nhiều chuyện, nhất là qua những đợt kiểm tra đảng'.
Một vài ví dụ: Ngân Giang từng lấy nhiều chồng, có nhiều con. Hồi kháng chiến ở vùng tự do, dinh tê vào thành. Giải phóng Hà nội là viên chức lưu dung. Vì thế, có mặc cảm, nên, hay khoe mình đã tham gia kháng chiến.
Anh Thơ lấy một bác sĩ, tên là Vịnh, người miền Nam tập kết, công tác ở bệnh viện Việt Xô- [do]bà Trường và Nguyễn đình Thi làm mối. Anh Thơ có thời gian vào Nam, làm tập thơ Quê chồng. Sau, lại bỏ ra Hà nội, chồng theo ra, và chết ở Hà nội. Hồi kháng chiến, Anh Thơ định lấy tây địch vận. Hồi ấy, có phong trào phụ nữ xung phong lấy hàng binh làm địch vận cho ta. Sau, có người theo chồng sang Pháp, tự hào là đã tham gia công tác cách mạng, như diễn viên múa Thúy Cầm. Lấy tây cũng là hy sinh vì nước, như Chiêu quân cống Hồ trong truyện cổ. Anh Thơ viết hồi ký, bịa ra nhiều chuyện cụ thể như thật. Vì có mặc cảm mình xấu, nên cứ bịa ra là mình ngày xưa rất đẹp, lắm người mê, như Nguyễn Bính chẳng hạn Tô Hoài [kể lại], " ... bà ấy mà mê Nguyễn Bính, [thì] chưa chắc Nguyễn Bính đã xúc động gì. Bính nó có hàng trăm gái theo ấy chứ. Anh Thơ lúc trẻ cũng xấu, lợi hở như miếng thịt trây. Tính thì đồng bóng, sang liên xô cùng với Nguyễn văn Bổng, Thanh Tịnh, lại hỏi thăm Goócki, mong ông ấy còn sống, " Anh Thơ mà đẹp thì chết với tôi rồi !".
Nguyễn Bính xấu giai thế mà lắm vợ- Bính là con một ông có Hán học, phụ trách trạm ngựa. Nhà khá, nhưng sa sút. Giống gia đình Nam Cao [vậy]. Vì thế, Trúc Đường là anh, thì được học hành tử tế [như Nam Cao], cón Bính, thì không được học mấy. Nguyễn Bính vào Nam, từ trước 1945. Năm 1954, không có tiêu chuẩn tập kết, vẫn cứ ra Bắc. Trước khi ra Bắc, có lấy một người vợ, đẻ ra cô con gái, nay phụ trách Sở Giáo dục Bến tre ... TỐ Hữu bày ra tờ báo tư nhân Trăm hoa giao cho Bính,và Nguyễn Bính làm trái ý Tồ Hữu, bị phê phán, Bính bực mình, bỏ về Nam định. Nguyễn Bính có 2 vợ chính thức, hiện cả hai đều làm ở bảo tàng lưu niệm Nguyễn Bính.
NTNT trước đây dạy học ở Sơn tây, có mối tình đầu với Nguyễn quang Sáng, Sáng giúp T. viết văn. Có lần, T. tặng Sáng một bó hoa, bảo là tự tay hái ở vườn về. Sáng xem hoa, thấy không có cuống, cắm tăm - [Sàng] tức lắm, tìm T., tát một cái. T. hay viết nhật ký, Chánh là chồng, bắt được, lộ hết chuyện bồ bịch. NTNT từng chất vấn mẹ, " Con là con ai/ Con Nguyễn quang Sáng,m Thu Bồn, Nguyễn đình Thi, Hoàng văn Bổn, Xuân Trình ... ?
H. cũng có 2 đời chồng.
PTTN cũng có 2 đời chồng, Sau, yêu một 'bồ nhí' , cưới xin hẳn hoi, nhưng sau nó bỏ. Không có con.
(Tôi hỏi Tô Hoài, " Dương thu Hương bảo tôi Y.N. thì mê Nguyễn đình Thi, còn PTTN thì mê Tô Hoài, có đúng thế không ? '--Tô Hoài trả lời, " Cô ấy xấu, tôi không thích ".
Bạch Diệp lấy Xuân Diệu. Vì cao tuổi muốn lấy chồng, nên thiết thực và cảnh giác. Đám cưới tổ chức to, nhưng không đăng kí kết hôn. Xuân Diệu, chắc do thủ dâm nhiều, nên bất lực. Như gà nhảy lên là tuột ngay, bạch Diệp bỏ luôn, sau lấy chồng khác, không có con.
Nguyễn đình Thi lấy vợ sớm, có 3 con, 2 trai, 1 gái: lễ, Chính, Như- Thi gửi rể. Vợ chết, gia đình vợ định gả cô em, tên Nghĩa, cho [Thi]. Nhưng, cô này bị sốt ác tính, chết. Hòa bình lập al5i, Thi cần có vợ, định nhắm con gái cụ Ngô tất Tố, hay cô Hồng, con gái Nam Cao. Sau, người ta làm mối[ cho Thi] lấy bà Trường, không có con. Nguyễn đình thi nbam tính mạnh, người đen, nói chuyện có duyên, đàn bà thích. Nhưng, Thi là tay bạc tình, ngủ với cô này đã nghĩ tới cô khác. [Và] gia đình nguyễn đình Thi như cái địa ngục, Thi hay bồ bịch, còn bà Trường thì ghen ghê gớm. Gia đình cụ Ngô tất Tố cũng thế, cụ sống với 2 bà vợ, suốt ngày xung đột.
Chế lan Viên trước cách mạng, có thời gian dạy học ở Đà nẵng. Có một nữ sinh tên là Giáo rất mê [Chế L.Viên]. Giáo là con nhà giàu, gia đình không cho lấy ChếL.Viên. Cố ta cứ đến ở với ChếL.Viên, mãi đến thời cách mạng tháng 8 mới cưới. Hòa bình lập lại ở miền Bắc, vợ chồng sống ở Hà nội.
Chế L. Viên ốm, phải sang chữa chạy ở Trung quốc, [ở nhà] Giáo ngoại tình với 1 tay làm mì páo, tên là Quang. Chế L.Viên chữa bệnh về, biết chuyện, nhưng định bỏ qua. Vợ chồng đêm nằm đắp chăn chung, nói huyện; Giáo nói: cái đầu của em thì thuộc về anh, nhưng thân xác em thuộc về Quang. Vậy là họ không trở lại với nhau được. Sau, ChếLViên lấy Vũ thị Thường, cán bộ phụ nữ, quê Thái bình, [gái] quá lứa, lỡ thì. Vũ thị Thường thường hay xúi gịuc ChếLViên vào sài gòn ở, một là Thường có bà con di cư ở trong ấy, hai, vì vợ cũ của CLViên hay đến quấy nhiễu, xin tiền. ..
"Đúng la chẳng có chuyện gì giấu ông được" [ tôi nói vớiTô Hoài vậy].
(còn một kỳ )
nguyễn đăng mạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét