Thứ Hai, 5 tháng 8, 2013

nhà văn tác phẩm cuộc đời - thế phong / 18 - 3

                          nhà văn tác phẩm cuộc đời
                                                  tự sự kể : thế phong

    Vào giữa thời  mật vụ nhiều hơn thường dân ngoài phố  thì những câu nói trên kia, mạng tôi mỏng manh như đi trên sợi giây tử thần của gánh xiếc.  Khi cuốn nói về ông Nguyễn đức Quỳnh xuất bản, trung úy thi sĩ Bùi Bình Hiếu**  vẫn   giữ quan điểm mang sông rất dễ bị  thủ tiêu  Ông cố vấn Quỳnh  cho bộ trưởng Ngô trọng Hiếu  không để cho tôi yên thân đâu, câu nói của anh, tôi nhớ cả thời gian và khoảng không gian.  Nên không lo  sao được ! Tôi trả lời anh ta :

    ...' tôi là kẻ vừa đào mồ vừa phải đọc  điếu văn thương tiếc sự nghiệp văn chương Nguyễn đức Quỳnh.

       Tôi bằng lòng nhận trách nhiệm từng chữ, một khi đã buông nét chữ.  Từ năm lên 1 đến  20, cha mẹ giữ dầu cho tôi, rừ 20 đến 30 tự trách nhiệm và sau 30 trở lên thì xã hội trách nhiệm về nó *** '
-----
*      thơ Thế Phong.
**    thi sĩ Bùi khải Nguy6n, tác giả thi tập Thiết tha. ( Đại Nam văn hiến tái bản , Saigon 1964 )
*** Nhận diện vóc dáng Nguyễn đức Quỳnh / Thế Phong  - bản tái bản năm 1964. 
        Bài vào đề cho ấn bản hai.  

    Không lo ngại sao được , khi tôi  mới thôi làm giảng viên chính trị Bộ Công dân vụ được 1 tháng 16 ngày, thì trong bản tham luận  Trần hữu Trang /  Giải phóng miền Nam  nhắc đến sự kiện chính quyền Ngô đình Diệm đưa tôi đi Trung tâm nhân vị Vĩnh Long để tẩy não.    Báo chí Saigon đăng  lại, hẳn rằng cuộc sống của tôi cầm bằng như dứa trẻ chơi diều đứt giây vậy.,

    Phải nhắc lại một lần về những ngày ở xóm  đạo Tân sa châu.   Những ngày cuối cùng ở đây, có lúc quá chán chường tôi muốn tự vẫn.  Nên bài thơ nào cũng mang nỗi tuyệt vọng cả., chỉ ít hoặc nhiều mà thôi - trong tập thơ Cho thuê bản thân  , đó là dấu tích của sự vì yêu cuộc đới quá sức mình tưởng vọng, chưa đạt được nên thà chết cho rảnh !   Bài thơ chót trong tập thơ kia nói về Bức tường trăm tuổi - độc giả nào biết tên thật  là Tường ,  sẽ biết rằng tôi nhờ đến mẹ tôi, người thân yêu nhất trước phút quyết  tâm  từ biệt sống.   Chị vợ anh trung sĩ  thuê ở  chung nhà với tôi thật nết na,  tôi đã viết những câu thơ này tặng chị :

                                  ... Có tiếng người đàn bà làm vợ nhắc tôi
                                      luôn nước đun sôi ban chiều, nàng dồn đầy bình thủy 
                                      quần áo giặt phơi ban ngày tôi về quên thu cất 
                                      nàng sắp xếp thứ tự đặt nơi chân giường,
                                                                                 cuộc đời thật chu tất
                                     tôi muốn bầy tỏ cảm ơn bằng nhìn theo đuôi mắt 
                                     Nửa khuya đàn ông ngự trị làm chủ hình hài 
                                    cảm ơn,  từ chối, lánh xa tiếng thở dài  người đàn bà nhân bản ...
                                       MỘT AN ỦI ;  NGƯỜI ĐÀN BÀ LÀM VỢ / THƠ THẾ PHONG

     Buổi tối sắp ra đi  rồi, tôi  bào anh chị là tôi sắp bị tái ngũ.  Chỉ là một cái cớ chia ly buồn bã để che đậy hết bước đường cùng  mà thôi.   Lánh khỏi nơi này còn có lý do để cắt  đuôi một tên đàn em  tôi xưa,   nay vẫn làm  ăng -ten cho ông bộ trưởng Hiếu   theo dõi .   Tôi  hiểu ra rằng  có tay đàn em kia thì vẫn đỡ mệt hơn , nghỉa là bạn ấy còn biết qua loa về  tôi để báo cáo cấp trên.   Chẳng hạn ,  nếu tôi bị chết  qua lời báo cáo  hống  của một tên  ăng-ten  vô danh nào đó, quả thật oan uổng !   Suy nghĩ rộng ra,  nếu phải thương một  người chết, vì tội  tử hình chẳng hạn,   tội mà chính y làm, hẳn người đời sẽ không thương tâm  bằng  kẻ chết vì tôi  bị vu oan giáo họa.   Kiểu chết oan này, theo như luân lý dân tộc tôi, thì oan hồn bao giờ cũng rất linh thiêng !  Không  biết có phải đây là một cách tưởng niệm để  kẻ chết đi rồi đỡ tủi hận !

    Anh chị trung sĩ cũng buồn cho hoàn cảnh tôi, chị vợ than thổ rằng: trai thời loạn, gái thời bình, nhưng trai thời này nào co`1 sung sướng gì, chết đi với 2 bàn tay trắng, nếu có vợ con rồi- thì vợ lại phải bước đi bước nữa.. Chị vợ trung sĩ nhắc tới chuyện  đốt sách hôm nào ...

    Tôi nhớ lại, có buổi chiều buồn quá, tôi ới một bà bán cá khô vào nhà, mượn  họ cân xem  bó thư tình hơn trăm lá  của Cao mỵ Nhân được mấy  ký lô ? (  có lá thư tình là  một tập vở học trò 50 trang, nàng tự nhận là để cho ông  via có nhìn thấy, tưởng là vết bài tập )   Bà ta trả lời gần 4 kí thì phải,  tôi không bán cho bà mà đem ra gốc cây trứng cá châm lửa đốt.

    Chị vợ anh trung sĩ  đứng  nhìn tôi đốt, vẻ mặt chị cũng buồn lây .  Những chữ, những lời ái ân đường mật, hoặc giận hờn, trách móc, làm mình làm mẩy... hình như có thầm mồ hôi nước mắt thật hay sao ấy, mà  ánh lửa bập bùng kéo dài đâu đó được một khoảng khá lâu.  Ngày sắp ra đi khỏi nơi này của tôi như vậy  !

     Ước vọng tôi có cao sa gì đâu cho cam !  chỉ mong  được một an ủi: có một người đàn bà làm vợ.  Những đêm,  chống nàng đi vắng ( vợ anh trung sĩ ) ,  quân nhân truyền tin làm ca, ngày làm, đêm nghỉ, có  ngày nghỉ đêm đi làm.  Thì những đêm anh ta đi làm, ở nhà chỉ còn tôi và chị.   Và có bao giờ bạn thức khuya, lại có tâm trạng chán chường, lúc đó chỉ có một niền an ủi nhất là đàn bà không ?  Nếu có lần nào bạn từng trằn trọc, lại phải nghe thấy tiếng thở dài của người đàn bà  không  phải là vợ mình*  - mà cô ta lại có cảm tình với bạn -  bạn chỉ cần nhấn mạnh một  cung tơ, hẳn sẽ mang lại  cho bạn nhiều an ủi, bạn sẽ thấy có cảm giác nào ?   Riêng tôi, tôi đã phải dằn lòng, kết thúc bằng câu thơ :

    .                           .. Nửa khuya đàn ông ngự trị làn chủ hình hài 
                                   cảm ơn, từ chối, lánh xa tiếng thở dài
                                                                            đàn bà nhân bản ... 
                                       THƠ  THẾPHONG
-----
* Lỗ Tấn có câu:  văn mình vợ người. 

    Khi tôi sửa soạn tếch khỏi chổ ở nơi xóm đạo Tân sa châu này, thì anh Cao thế Dung lại thăm.   Thấy cảnh túng quẫn bế tắc của tôi, , anh đề nghị   với tôi về trại di cư lánh nạn.  Anh đúng trúng  yếu điểm của tôi  khi ấy, anh nhấn mạnh về trại di cư  có cơm ăn, nơi ngủ ổn định, hiến binh, quân cảnh, cảnh sát không hề lai vãng.  Cao thế Dung đưa ra  trường hợp anh từng dính  líu  vụ đảo chính năm 1960,  anh đành phải bỏ cà  gia đình vợ con, về nằm ẩn tại một xó của nhà thờ Dòng Đồng Công ở Thú Đức.   Ngẫm nghĩ lại, tôi đối xử với anh Cao thế Dung đáng trách nhiều; nhưng anh tốt  vô cùng đối với tôi.  Mặc dầu, nhiều khi tôi đả kích , bài bác anh sẽ là tay sai  chính quyền,   ấy là lần  anh định ra ứng cử đại biểu quốc hội.  Và  không cái tốt nào cũng không bằng lần anh đến  dọn đồ đạc cho tôi, tói nói dối anh rằng anh chị trung sĩ truyền tin muốn xin lại giường chiếu, chăn màn của tôi.  Bàn ghế, cốc tách, kể cả bát, đũa, nồi niêu, soong chảo.  Còn chiếc tủ gương tôi  gán nợ cho bà chủ nhà, vì tôi  thiếu tiền nhà 2, 3 tháng gì đó.   Tôi còn nợ anh chị trung sĩ truyền tin  400 đồng, vay để tiêu vặt.  Khi nhờ anh Dung tải  đồ đạc đi, trong túi tôi cón lại địa chỉ vợ anh trung sĩ , chị ta đưa địa chỉ nhà  bà mẹ , để khi cần tôi  tìm gặp ị .

    Thế là tôi gặp anh Phạm quang Huyến từ đấy.  Chẳng hiểu trước, anh Dung đã giới thiệu về tôi  ra sao- khi tới - anh Huyến rất niềm nở .   Anh  từng là cựu phó lý  xưa, có nho học, từng bị giam tại trại Lý bá Sơ CS dăm năm.   Cảm tưởng đầu tiên của tôi là hài lòng,  vợ anh Huyến qua đời rồi, nhà không có đàn bà.  Khi tôi viết lại câu truyện ngắn  lưu niệm, những ngày sống ở đây, nỗi buồn thấm thía còn dâng lên ở cuống họng *
----
* Khu   rác ngoại thành / Thế Phong in rô- nê-o đầu tiên  trong Tủ sách Đại Nam văn hiến -  Nxb Trình Bày tái bản  lần 1 năm 1966-  Nxb Thanh  niên + Cty Thành Nghỉa  tái bản   Khu rác ngoại thành vào năm 2006 gồm  bản dịch anh ngữ Đàm xuân Cận /   The Rubbish  tip outside the city,  226 trang khổ 13x 19cm. ,

    Khi anh Dung đi dạy học,  tôi ở nhà, hoặc đạp xe đạp qua  khu Dakao đánh stăng-xin những tập  bản thảo ứ đọng.   Từ nhà trọ xóm dạo Tân chí Linh tới  Dakao,  đạp xe mất  nửa tiếng đồng hồ, một ngày cả đi vế 4 lần , lắm khi mệt ná  thở.

   Hoặc, tôi ngồi ở nhà dịch tiếp truyện  dài La Cravache / Virgil Gheorghiu khiến tôi say mê quên hết tất cả hon cản h chính trị đáng nôn mửa khi ấy,  để vủi đầu vào địch, chỉ đâu đó trong vòng 10 hôm là hoàn thành bản dịch Chiếc roi ngựa  dầy khoảng trên 200 trang in.  Tiếp theo, tôi dịch  những cuốn khác, như Maiakovski / Elsa Triolet và một cuốn  sử Việtnam bi thảm  Đông dương /  Louis Roubaud  nói về hòan cảnh chính trị Việtnam năm 1930.

      Trong vòng 4  tháng trời, tôi dịch xong 3 cuốn, in  rô-nê-ô được 2.  Dịch truyện Virgil Gheorghiu với mục đích chửi vào mặt bọn  cai trị, những ông hoàng Fanoti, một  thứ mua quyền  hành từ  những tên đầu sỏ đế quốc Thổ nhĩ Kỳ nhượng lại  - nào khác gì anh em ông Ngô  đình Diệm nhờ Hoa Kỳ và Pháp mua địa vĩ để về cai trị đất nước tôi đâu ?   Cuốn truyện ấy còn nhiều  điểm tương đồng khác nữa, Virgil Gheorghiu ca tụng những con ngựa già của Chúa, chết đi một cách khổ hạnh để phục vụ Chúa bất vụ lợi , hoàn thành sứ mạng hầu việc bằng đôi  chân trần.  Chẳng bù cho  một số  lớn  cha xứ đất nước chúng tôi dựa vào thế lực chính trị Ngô triều , có xe hơi  riêng  bom bon chạy  hầu việc Chúa   . Thôi thì đủ cách làm giàu, ăn sung, mặc sướng,  bỏ tiền kinh doanh làm chủ báo  vừa có quyền vừa hốt bạc.   Riêng tôi chỉ quý trọng những cha Dòng , hoặc Dòng Châu sơn đi chân đất, tự làm lấy ăn, không giữ trong người quá 100 đồng bạc cho mình.

       Còn nữa, những nông dân Rumani  khổ sở cũng đi chân đất,  ăn bông cỏ, bị cường quyền  đàn áp, chết đi dưới sự dày xéo tàn nhẫn của những tên  chùm phòng kiến Fanoti.   Cả một hệ thống  phong kiến  mà tácgiả Gheorghiu  gọi là  phanariote  đầy rẫy trong bộ máy cầm quyền tác loạn.  Quân đồng minh   Rumani khi ấy là Đức  phát xít chống Nga , một  anh lính Đức  nhìn thấy cảnh bất công trong quân đội Rumani, bèn xúi giục chống  lại, viết báo cáo tố cáo lên cấp trên - thì anh lính Rumani buồn bã đáp lời ' ở đây là trung úy Fanoti. Khi họ nhận được tờ bá cáo về tôi ác trung úy  Fanoti gửi lên đại tá Fanoti, chúng nó bênh vực nhau, thì người tố cáo sẽ càng chóng chết hơn. Thì tình trạng chính trị ở Việtnam chúng tôi cũng như vậy.  Rồi đến những cảnh khổ của vợ anh nông dân  Rumani đã chết  ở mặt trận , vợ ở nhà trung kiên chờ chồng trở về, nhưng  chồng chẳng bao giờ trở về , đến khi quân Nga  tràn sang  hãm hiếp chị , chị vợ tưởng chừng mình có công khi cầm tù được chúng. Nhưng vợ người lính kia đâu có ngờ được vua và các ngài bộ trưởng đã ký kết đã không còn coi Đức là bạn đồng minh mà nay là  đống minh là Hồng quân Nga . Và người vợ anh lính nông dân Rumani kia đã không kịp được  biết sắc lệnh nhà vua, đã đổi thù thành bạn, coi bạn cũ là thù - nên viên trung úy Rumani Fanoti  đã kết thúc đời  chị ta bằng mấy viên đạn.

      Chỉ có nhược tiểu dân tộc mới cảm  thấy rằng truyện Chiếc roi ngựa / Virgil Gheorghiu  nói lên tình cảnh xoay đổi bất ngờ của đế quốc ký kết với nhau, và dân chúng vẫn chỉ là vật thí thân, một thứ nô lệ cho chủ mới.  Và bọn chủ cặp-rằng này chẳng có lập trường chi hết, mạnh chiếu nào che chiều ấy, chúng chỉ lả những tên tay sai  - và người dân không theo dõi được đường đi, nước bước, nếu chậm chân, chậm gót theo thị hiếu thời trang chính trị thì họ sẽ trở thành  một thứ dê tế thần.    Nàng Johanna  xứ Rumani hay muôn ngàn nàng Johanna của những dân tộc nhược tiều, không thể tự quyết định số phận mình đâu ?  Nó sẽ còn tồn tại mãi như vậy Virgil Gheorghiu Chiếc roi ngựa còn gần họ mãi mãi.

   Còn việc tôi dịch  cuốn tự-sự-kể  đời  Maiakovski / Triolet, là tôi phỉ nhổ vào mặt bọn văn nghệ sĩ trưởng giả, bất tài, những tên bồi bút, những tên văn công mà tôi gọi chúng là những tên bồi còng lưng gánh chế độ, những tên có lưỡi dài như quả lúc-lác, những tên nịnh bợ tài ba bất cứ thế hệ nào cũng có mặt .  Và thiên tài bị che khuất và chỉ được phục hồi quyền chức khi qua đời.

    Tôi yêu xứ sở tôi, tôi quí trọng những người Pháp dân chủ, nhìn sự kiện lịch sử không theo thiển kiến, quyền lợi riêng chủ thực dân.  Khi Louis Roubaud sang Việtnam, thực dân,, chính quyền mua chuộc chiêu đãi anh ta, song, tác giả cuốn bút ký lịch sử kia vẫn bồi  nhát búa vào tội ác chúng, để gián tiếp tiếp tay cho  dân tộc Việt độc lập, tự quyết của năm tháng về sau này.

    Riêng tôi  vẫn tiếp tục in sách rô-nê-ô, tôi bất chấp  chúng  dè bỉu , chẳng hạn  Hoàng trọng Miên bị tôi tố cáo đạo sách  Nguyễn đổng Chi ( Hànội) , tác phẩm đạo văn kia vẩn được giải Văn chương toàn quốc
( VNCH)  anh ta viết bài đả kích tôi trên  tạp chí  Văn hữu :  ' ...thiên tài cao bồi văn nghệ,m chụp hình in ảnh lờn trên tác phẩm, vị sơ nay mai bị đưa vào trại tế Bần  thì mất   giống ... ' -  hoặc  đối với  bọn bọn trưởng giả,  bọn văn sĩ tôi đòi - tôi phỉ nhổ vào mặt chúng bằng câu này:

    " Tuyệt đối cấm bọn nô lệ, óc đầy tớ, não thư lại Phanariote và bọn văn sĩ nửa mùa đọc sách này "  trên gờ bìa một cuốn sách của tôi xuất bản vào 1962. *

                                                                                kỳ sau; chương 8 )

         thếphong

-----
*  Jacques Perry & thê nào là phi lý  / Thế Phong - Đại Nam văn hiến, Saigon 1962. 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét