Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012

THƯ CỦA MỘT THI SĨ ĐÀNH CƯ TUYỆT TÊN MÌNH / THẾ PHONG

bài đăng trên tuần báo đời ( saigon)  số 58, năm 1970


            thư một thi sĩ đành cự tuyệt tên mình ( lá thư thứ 1 ) .
                                                bài: thế phong


N hững ngày này của 18 năm vế trước, tôi là một nhà văn  tập sự, khởi sự bằng  truyện ngắn nhỏ đầu tiên, được đăng trên tờ nhật báo Tia sáng ( Hà Nội tháng 11 / 1952) , do nhà báo Hiền  Nhân ( Đỗ Trọng Quỳnh )  phụ trách  trang Học sinh & Thể thao .

18  năm sau ( 1970)  hơn 40 tác phẩm  đã xuất bản (việt, anh, pháp) - tự nhiên, một  phút bốc đồng,  có ý định cự tuyệt tên mình ( bút danh).  Chủ bút tạp chí TENGGARA,  giáo sư  Lloyd Fernando  , cho rằng tôi, và  Taufig  Ismail  (Indonesia ) " - viết được   những trang tuyệt bút ở Đông Nam Á (1) .  Và 2 giáo sư Pháp:  Maurice M. Durand   và  Nguyễn -Trấn  Huân  ( đại học Sorbonne) , soạn giả Introduction à la littérature viêtnamienne   cập nhật tiểu sử   một nhà văn  Nam Việtnam  trong  Dictionnaire biographique (2).  Củng năm  1970,    một truyện ngắn Immondices à banlieue,được Jean-Claude Pomonti đưa về Paris,  đăng trên báo  Le Monde . ( bản dịch : Cao Giao  / Huỳnh Văn  Phẩm  ).

Cũng vẫn sau 18 năm cầm bút,  một tự-sự-kể Nhà văn tác phẩm, cuộc đới được Nxb Đại  Ngã ( Nguyên Vũ -Vũ Ng ự  Chiêu chủ trương ), tái bản  năm 1970.   Một lần gặp Chu Tử ở nhật báo Sống, anh mời tôi viết một loạt bài, tương tự như Nhà văn, tác phầm cuộc đời- vì lẽ ấy, tôi khởi viết  Thư môt thi sĩ  đành cự tuyệt tên mình   - anh  sẽ  cho đăng trên tuần báo Đời ( mới thuê  manchette   - chủ nhiệm Trần Thị Anh Minh ) Nói đùa  cùng Chu Tử:
:
"... xin khất một dịp thuận tiện hơn,  vì thưa anh, một Nhà văn, tác phầm, cuộc đời đủ  l;àm chúng phát điên  ít nhất là hàng  chục năm ". 

Tất nhiên chúng đây, ám chỉ bọn ngụy văn sĩ.,  văn chương đặt hàng ,   philistin ( trưởng giả- như F.Nietzsche ám chỉ bọn văn sĩ giá áo, túi cơm, nịnh trên nạt dưới,  đội lốt văn sĩ,  là người  đi bằng 4 chân bon bon chạy lùi, phi cầm phi thú, văn chương viễn mơ,  đầu cơ đón gió,   ninh bợ ngoại nhân đặt ' hàng văn hóa' ,  hệt cảnh mua đào chính , sang kép  độc trong giới cải lương.  Chúng huênh hoang vỗ ngực có lương tâm cao cả,   làm văn chương quốc gia  chân chính    v.v. ...  Chúng nào có hiểu gì về văn chương đích thực là cái gì đâu  , văn chương  tốt thực sự phải là  văn chương  của nhà văn : ' trí thức  làm những việc không dính dáng gì tới họ . ( J. P. Sartre) ,  chống  bệnh sùng bái tiền bạc  ( le fétechisme de l'argent) ,    biết  gánh đau khổ đồng lọai,  biết sử dụng đồng tiền  ngoại nhân  phục vu tốt văn hóa nội địa.   Một thí dụ điển hình, rất đáng khâm phục, một gương sáng từ  nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh   , nhận tiền  dế quốc  Phú Lãng Sa  phục vụ  văn hóa  An Nam , sau cùng , ông bỏ thân xác bên đất nước  Lào, và trước đó từ chối món tiền rất lớn  từ  một toàn quyền Đông  Dương !  Có thể, ít ai quên,  chính Nguyễn Văn Vĩnh, từng nhận   tiền của  Pháp, không chỉ làm văn hóa An Nam , còn  nuôi  con học ở  Pháp .    Ông ta  biết rõ giá trị   đồng tiền  xiết máu hơn ai hết,  rồi  chính  cái  thế lực đồng   tiền vây bủa , khiến ông phải sang Lào đào vàng trả -nợ hoàn nợ -  lại  bỏ thân xác thân  nơi  xứ người.

 Riêng tôi,.  khoảng 5 năm trời, không hề gặp gỡ, giao du, hoặc có một lời nhắc đến bọn chúng'   Rồi, ngày lại ngày, bọn văn công càng  tăng,.huênh hoang, tác quái, vừa nhận tiền  vừa ngẩng cao mặt, hệt Lỗ Tấn xưa kia, từng lên án' bọn  tay sai , chìa tay phía sau nhận tiền quân  Phiệt  Nhật, tay trước  giơ lên cao,  lại  huênh hoang  là phục vụ văn hoá Trung  hoa  ! '.

Vậy  anh Chu Tử ơi,  tập sách này, có thể sẽ là cái gạch nối -   tiếp theo  Nhà văn, tác phẩm, cuộc đời  nhưng thưa trước cùng bạn đọc, có khác đôi chút.   Đó là sự  hằn học   sốc nổi gíáng mạnh  trên  đầu bọn văn nô trưởng giả  không thương tiếc- nay,  vẫn lên án thẳng thừng  tư cách bỉ ổi ấy của chúng,  nhưng có phần  độ lượng  hơn; chưng bằng chứng việc làm   sai trái mà  không cần lời  bình  -  để  người tới sau rút được kinh nghiệm - tránh hay  tự nguyện  dấn thân , còn   tùy....

  Qua cuốn sách dịch Hồi ký văn chương viết sớm  của E.Evtouchenko  (  Đường Bá Bổn  dịch , theo bàn pháp văn  của K.S. Karol, Nxb  Julliard 1963,  Paris - Nxb Đồng Nai tái bản 2003 )  -    thì : Evtouchenko   đưa ra  ý kiến này:  xã hội này  chỉ có tốt và xấu  -  ông đứng về phia công dân tốt để tranh đấu cho một xã hội, có nhiều người tốt tăng lên.   Bới ,  theo  ông , dù  30.000 năm nữa , thì số người xấu kia chưa thể bị tiêu diệt hết  đâu ?  Nói vậy, không có nghĩa  phải bó tay.   Chúng   ta phải biết vậy mà vẫn tiếp tục tranh đấu .  Những người xấu sẽ ít  hơn độ xấu của thế  hệ mai sau, vị họ sẽ bị người tốt  phản kháng, tranh đấu tiêu diệt . .

Từ    một thi sĩ đánh cư tuyệt tên mình  -   sớ dĩ  có - ngoài Chu Tử ra, cảm ơn  2 bạn nữ  , đọc giả, yêu cầu  kể cho nghe tiếp về một thời đoạn  sống của tôi viết văn, làm báo  -  đó là chị X..giáo sư trung học ở  Dalat, và một nữ sinh trẻ, thư đề tên Huyền Thoại  - muốn được biết thêm doạn đời  18 năm trôi nổi  của tôi, thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần,  suy tưởng,  hành động , đối với bạn bè văn chương ra sao ?   Chẳng lẽ điều ấy tôi   nói là  không biết , được sao?    Cô bé ơi,  ở tuổi này, tôi vẫn như đứa trẻ-già-đời   mà thôi.  Văn sĩ  bậc thầy nói vậy đấy ! ( 3) .   Cô bé HuyềnThoại ơi, tôi cảm ơn cô bé, cô hiện  là  vết sáng soi rọi lương tâm tôi từ vài năm trớ lại đây,  muốn chối bỏ cái tôi đã thành đấy thôi . Củng không  khác  mấy với   Saint  John Perse , bởi ông từng có lần  bộc bạch :   "     Và đến giờ, ôi thi sỉ,  mi hãy cự tuyệt mang tên  mi, cả nơi  mi được sinh ra, thêm cả giống giòng ( nữa ) ! "

     H ãy  nhớ lại ông ta , một thi sĩ , một nhà ngoại giao tài ba, nhìn nước Pháp bị Đức Phát xít xâm chiến  ( thế chiến II  ),   bỏ nước sang Anh quốc  sống vất vưởng,   ngửa mắt lên bầu trời,   hét to  : khước từ bản thân nghiệp  dĩ, nghề nghiệp,  giòng giống, tổ quốc - là đúng quá đi chứ !

Riêng tôi, ngoài sự cảm ơn hai vị -  còn một người mà tôi yêu dấu - được  nhận lời cảm ơn chưa nói ra - đó là vợ tôi  - nàng chưa có một  phút nhìn thấy  khoảng sáng chói lòa  trong sự nghiệp văn chương của tôi  đền đáp !

Lá thư này, khi tôi  đang   viết , bỗng sáng nay, một  thư mời  -    từ một viên chức   tại Thư viện Abraham Lincoln, 8 Lê Quý Đôn  ( Saigon 3 ) -   họ sẽ trả lời  về một dịch vụ văn hóa , hình như  tôi đã sẵn sàng  sang Hoa kỳ vào đầu năm tới  chưa ?   và hỏi lý do nào tôi biết   phương danh thi sĩ Paul Engle ?

  Trả lời : -  năm 1966, qua sự nhắn tin,  qua  họa sỉ Thái Tuấn, giám đốc Asia Foundation , ông
Leonard Overton, trụ sở đặt tại 36 Đoàn Thị Điểm ( Saigon 3)  mời tôi tham dự chương trrình International Writing Program  ở Iowa.   Tôi nhớ tới một bài báo đăng bài diễn thuyết của ông ở Lion Club  :  :"  cho tiền  còn  khó hơn là kiếm ra  tiền "   - ý nói -  đồng tiền viện trợ của Hoa kỳ và cách  cho như thế nào mới phải cách ?    Khi  đọc xong tự- sự -kể  Thephong by Thephong, the writer, the work and the life  ,  ông không thể hiểu được, tại sao  lại có thể có   trường hợp một  người làm văn như tôi  bị đói cơm  tới 2 ngày , sau được viết lại trong Thephong by Thephong  , the writer,  the work & the life . mà ông đã đọc , rồi   hỏi thẳng thừng :  ' Có thật  như vậy  không, nhà văn ? "

 Trả lời  đại khái :

 " - ...bởi ông có nhiều may mắn quá, nên không thể hiểu, vì ông là công dân Huê Kỳ ."

Ô ng Leonard Overton  góp ý, tôi nên gửi  cuốn sách kia cho  thi sĩ  Paul Engle, giám  đốc International Writing  Program  để được  mời  tham dự  chương trình  viết văn quốc tế, có nhiều nhà văn  các nước tham dự .

T ới 1968, giáo sư Đỗ Đình ( nay đá qua đời) , có viết cho tôi một thư  mời   tới  Thư viện Abraham Lincoln để nhận một thư mời của một  hội văn hoá ở Mỹ.     Lần ấy, tôi không tới, rồi  viết thư cho anh Đàm Xuân Cận ( người dịch   Thephong by Thephong, the writer, the work & the life  )- đang dạy tại RAAF SCHOOL (4) ở  Sydney .  . Ít lâu sau, tôi nhận thư anh,báo tin sắp về Saigon , rồi sau đó sẽ  cùng tôi tới gặp  họ  .

Tới   khoảng tháng 10, nắm 1969, tôi và anh Đàm Xuân Cận tới gặp giáo sư Đỗ Đình . Ông cho biết, cô Helen.E. Baker, phụ trách văn hóa JUSPAO mời tôi tham dự chương  trình International Writing Program .  Khi ấy, tiếng anh  của tôi rất  tồi  -  cô Baker yêu cầu tôi  ghi danh theo học  một khoá tại
Staff Devolpment Center .   Tôi  học anh ngữ tại  đây , đâu đó được hơn 1 năm, giám đốc trường anh ngữ, cho biết, tiếng anh chưa lấy gì làm khá , tuy không đến đỗi tồi , nghe xong, tôi vửa buồn vừa mừng .

 B uốn, bời  tôi chưa đủ trình độ tham dự hội thảo, nghe vả hiểu được tiếng anh,  chuyện  trò trực tiếp  với  các văn sĩ nói tiếng anh.  Cô Helen E, Baker  khích lệ:

"... rồi ông sẽ tới một đất nước không có sự nghi kỵ, yên ổn, để sáng tác, thâu thập túi khôn  nhân loại ..." 

Tôi  vẫn học tiếng anh văn tại 36 Sương Nguyệt Anh, mỗi ngày 4 tiếng ( trừ chủ nhật)  ròng rã  3, 4 năm . Có  6 lớp , từ 1 đến 6 , học hết 6  thì thi Proficiency  Michigan .Tôi ở lại lớp nhiều lần, tự fail on purpose  để tiếp tục đi học nửa ngày, nửa ngày  ở nhà hoặc rong chơi cà-phê, cà-pháo- còn hơn vào   phòng, sở làm việc !

 R ồi có một buổi sáng, tôi được mời  tới Tòa đại sứ Hoa kỳ  tại Việtnam ( phòng 206,  gặp cố vấn văn  hoá, có phương danh Linclon  thì phải) ,  ông chìa  cuốn WE PROMISE ONE ANOTHER  -  poems from an Asian war , do Don Luce, John C. Schafer & Jacquelyn Chagnon  sưu soạn, dịch, in ấn .    Don Luce, tay đầu sỏ phản chiến, năm 1970,  dẫn phái đoàn Thượng viện Mỹ sang VN thăm Chuồng Cọp  tại Côn đảo, sau  đó ,  báo chí Hoa kỳ đều nhất loạt  đăng phóng sự ảnh, lời bình  .   Ông Linclon  mở sách, chỉ tay bài  thơ
 550.000 G.I.  IN VIÊTNAM,  poem by The Phong ( 18 trang) và  nói rõ lý do từ chối cấp visa:

    "... Chương trình đi Huê Kỳ diễn thuyết văn chương  trục trặc rồi.  qua thư từ của Paul Engle, ông cho biết, tiền  máy bay, đài thọ ăn, ở tại  Mỹ , đều do chương trình hội thảo văn chương quốc tế  Đại học văn khoa Iowa đài thọ, chỉ cần có  visa của Tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Saigon cấp chiếu khán nhập cảnh là xong.   Nhưng  không xong rồi, bởi lẽ, thư của cố vấn văn hóa Tòa đại sứ, ông Lincoln, đại diện đại sứ E. Bunker, trả lời cho biết, họ không thể cấp visa,  mặc dầu chi phí đã được đại học Iowa đài thọ.   Trong thư, họ không nói lý do,  chỉ mời  tôi tới, để họ  giải thích chi tiết. Hóa ra, chỉ vì cuộc hội thảo văn chương quôc tế, có nhiều nươc Cộng sản tham dự, và cũng có lẽ, tuyển thơ We Promise One Another   của Don Luce, John  C. Schafer & Jaquelyn Chagnon sưu soạn thơ từ cuộc chiến châu Á, gồm đủ 3 thành phần :  Cộng sản, Giải phóng miền Nam và Việt Nam Cộng Hòa ... nên Tòa đại sứ ở đây , liệt vào loại văn chương đen chống chiến tranh chăng?   Hỏi là trả lời, vì Don Luce là người Mỹ rất giỏi tiếng  việt, có bút hiệu  Đoàn Lân- ( từng đăng bài trên t4p chí Trình bày của  Thế Nguyên ) -   người từng đưa các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ thăm chuồng cọp ở Côn Đảo năm 1970 - gây một dư luận báo chí chống chiến tranh can thiệp của Mỹ  vào  Việtnam, làm Tòa đại sứ ở đây điên đầu.   Trong tuyển thơ ấy, giới thiệu thơ Nguyễn Du, bậc thấy văn chương cổ điển, như lời dẫn
an ancient master, thơ Lưu Trọng Lư, thơ tranh đấu Nguyễn Đình Chiểu, Xuân Thủy, Thu Bồn, Tố Hữu, thơ nói về sự can thiệp của ngoại bang, như lời nhạc của Phạm Thế Mỹ, Miên Dức Thắng, Trịnh Công Sơn, Nhất Hạnh, Nhất Chi Mai Thế Phong ... thơ Giang Nam, Nhuệ Hà, Tế Hanh,
Hồ Bắc, , học sinh tr, như  Hoàng Minh Nhân, Thy Can, thơ trong tù  Phan Châu Trinh, Hồ Chí Minh, Thảo Giang, Lê Giang, Thép Xanh, Cửu Long; thì dù Paul Engle có viết thư riêng cho tôi, bảo, đưa đến Tòa đại sứ Mỹ ở Saigon, trong đó có một câu cuối cùng show it to them   .. cũng chẳng ích gì ! 
Bài thơ 550.000  GI in  Việtnam   của tôi,  đã đăng trên tạp chí TENGGARA (5) , thế mà Don Luce và các bạn ấy, chẳng hề xin phép tác giả một lời, l còn sửa CHỮ NGHĨA - chữ nghĩa đây , là sửa  chữ chính xác hơn, bảo đảm  hơn cho nội dung chống chiến tranh sâu sắc hơn.  Và lại không hề có  hàng chữ reprinted  by  ... , và   tên dịch giả Đàm Xuân  Cận (  đánh lận đọc giả, có thể hiểu là ban tuyển chọn dịch, chẳng hạn vậy  ).   Thêm điểm khôi hài nữa, không xin phép tôi -  một , trong những tác giả -  ở trang  2 tập  We Promise One Another ấy-  3 vị ấy ghi rõ ràng :   họ giữ bản quyền,  sách được in theo lối mimeographed , phát hành tại Washington , D.C, 1974.   Sở dĩ tôi có được trong tay, là do Thê Nguyên chuyển , nghĩ lai , tôi  càng thấy thấm thía về sự kiên tâm của thi sĩ Paul Engle, ở chỗ , ròng rã  mời tôi sang Mỹ trong vòng 4  năm  liền mà không  có kết quả !   ......  (6) .

Một lần ,  tướng Trần Văn Minh, Tư lệnh Khônglực VNCH ,  (  tác giả tập  truyện ngắn Chết Non, Trong  Đục,..(. Sài Gòn 1967, 1974,  )  cho  gọi  tôi lên văn phòng  .  Tướng Minh  thân mật hỏi,   liệu tôi có muốn tham dự International Writing ProgramIowa không ?   Nếu muốn, ông sẽ  đưa tôi đi làm hạ sĩ quan liên lạc Không quân tại Huê Kỳ, và từ đó, tôi tự do đi  hội họp,  tất nhiên không cần Tòa đại sứ, đại xiếc nào  cấp vi -sa  vi- diếc .   Tôi cảm ơn , từ chối cách dứt khoát, tướng hỏi tại sao ?

 Một vợ + 5 con - đứa thứ 5 mới chào đới, bên nội không còn  ai, bên ngoại ở   Dalat.  Tôi phải  chăm sóc, cơm nước, giặt giũ tã lót,  lính thời chiến  phải gác,  đêm ứng chiến -  có khi buồn ngủ quá, trực  chiến về, giặt một chậu tã lót lớn xong-   mặc cho Việt Cộng  nã pháo kích  vào sân bay  ình ình, mọi người xuống hầm trú ẩn-   riêng  tôi  coi   giấc ngủ quan trọng hơn,  tiêp tục   leo lên giường cá nhân ,  đánh  một giấc dài.

Tư lệnh Không  quân   phán : " ..rất thông cảm,  anh Thế Phong ạ !".
    []

THẾPHONG .

nguồn:  tuần báo đời  ( saigon ) số 58, năm 1970  .- bài này có đọc lại ( tháng 6/ 2012)

-----
(1)  ...   In looking for the best work by Southest Asian writers,   TENGGARA  plays it quite literary by ear.  The 1967 number was much enhanced by,  among much other excellent work, the tragic simplicity of  Taufiq Ismail's poems.   Readers of that issue will know how Taufiq's poems were obtained.   For the present issue we were fortunate again in discovering the English translation of a book of poems by Vietnamese poet, ThePhongThe selection we publish here is a moving reminder of the spiritual devastation and waste his country has undergone for twenty years without respite.   We hope to publish more of ThePhong's work in the near future ...

 (    Tengarra Diary  / TENGGARA, , Volume II , Number I  1968 / April 1968 / Kualua Lumpur / Malaysia - p. 97 )

(2)      THEPHONG  .  Vrai nom  ĐỖ  MẠNH TƯỜNG.  Né en 1932 à Nghĩa Lộ  ( Haute région du Nord Vietnam ). A fait beaucoup de métiers avant sa" descente" à Hanoi pour s' adonner aux études.  -  1952 : commence à écrire des nouvelles. -  1953 : reporter pour différentes revues de Hanoi  : Giang sơn, Dân chủ, etc ... Vit actuellement  au Sud Vietnam et s' occupe de l' édition des ouvrages sur la littérature viêtnamienne actuelle .  La plupart de ces ouvrages  sont ronéotypés.  
Principales publications : Tình sơn nữ, roman  1954. - Lược sử văn nghệ Việtnam ,  plusieurs fascicules, sur les écrivains d' après- guerre, les écrivains du Sud, etc .... - Hiện tình văn nghệ miền Nam  ( État actuel de la littérature et des Arts au Sud ) 1962 , p. 174  .
     ( page 216)

 Ed.   G ,-P, Maisonneuve et Larose et UNESCO,    Paris 1969.

(3)   André Gide : " Je reste toujours un viel enfant "
.
(4)   Trung tâm Thính thị Ngoại ngữ Không quân Hoàng gia  Úc .
 (5)  TENGGARA 5  -  p 87- 92 .

(6)  HỒI KÝ NGOÀI VĂN CHƯƠNG / THẾ PHONG ,   Đồng  Văn xuất bản + Nhà sách Văn Nghệ tổng phát hành.
      ( ISBN  1- 886535 -07-8  /   Copyright by Đồng  Văn 1996  - tr. 117 - 118)  



    
,

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét