thơ NHÃ CA [ Trần Thị Thu Vân 1939- / Hoa Kỳ ] Nguyễn Lệ Uyên / Tp. HCM -- trích : www.vanchuongviet.org>
Phê bình | |
Thơ Nhã Ca, một vài tư liệu nhỏNguyễn Lệ Uyên | |
Nửa cuối thập niên 1950s đến đầu 1960s, diễn đàn văn học miền Nam là sự nối dài của Tự Lực Văn Đoàn, hiển hiện rất rõ trên Tân Phong, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Hữu… Chỉ đến khi nhóm Sáng Tạo ra mắt số đầu tiên tháng 10/1956 với tuyên ngôn “làm mới nền VHNT Việt Nam”, thì liền sau đó xuất hiện nhiều cây bút, chẳng những làm nên tên tuổi sau này mà còn tạo cho dòng văn chương miền Nam tràn đầy tính sáng tạo, tự do, nhân bản.
Đọc lại tạp chí Sáng Tạo số ra mắt, Mai Thảo đã vung bút đến 5 trang dưới tựa “Sài Gòn thủ đô văn hóa” để vẽ ra một viễn cảnh xán lạn của nền văn hóa văn nghệ trên miền đất tự do : “ Ánh sáng của Văn Hóa cháy lên hôm nay từ giữa lòng đời sống lớn rộng của dân tộc là một giòng máu bừng bừng mãnh liệt luân lưu trong một cơ thể chứa đựng cái vô hạn của những năng lực sáng tạo trẻ mạnh phong phú.Giòng máu bắt nguồn từ trái tim. Sài Gòn xuất hiện trên những kinh rạch tăm tối ngày nào, đã đổi thay để có thêm một hình thể tinh thần nữa: hình thể của một trái tim đập mạnh, với những đường máu, những lối ánh sáng đan chen nhau, tỏa đi trên toàn thể, toàn diện”. (Mai Thảo – Sài gòn thủ đô văn hóa, Sáng Tạo bộ cũ, số 1 tháng 10/1956)
Sau Sáng Tạo, nhiều tạp chí văn nghệ ra đời tại Sài Gòn, những người viết trẻ lần lượt xuất hiện và lấn át cả những cây đa cây đề trước đó: Đỗ Tốn, Vi Huyền Đắc, Mặc Đỗ, Tương Phố… Và, trong sinh hoạt văn nghệ khởi đầu cho tự do sáng tạo với nhiều khuynh hướng (kể từ thập niên 1960s), đã xuất hiện nhiều cây bút nữ khiến cho văn đàn miền Nam sôi động hẳn lên. Nhã Ca trong trường hợp đó! Những trang viết đầu tay của bà khi còn là nữ sinh Trung học Đồng Khánh (Huế) đang trong thời kỳ tuổi mới lớn, giàu mộng mơ, tưởng tượng, cảm xúc chắt lọc, sâu lắng… Khởi đầu, từ năm 1957 trở đi, thơ truyện của bà gửi đăng đều đặn trên các tuần báo tạp chí văn nghệ Sài Gòn với tên thật Trần Thị Thu Vân, nhưng tên tuổi cũng chỉ thàng thàng, không có gì nổi trội, chưa gây được sự chú ý, có lẽ do vốn sống chưa nhiều, chưa đụng chạm với thực tế bập bềnh nhiều lớp màu sáng tối lẫn lộn! Phải đến năm 1960s, tên tuổi Nhã Ca mới được biết đến như một bông hoa đẹp giữa rừng thơ muôn màu sắc! Đó là khoảng thời gian Nguyên Sa đứng ra chủ trương nguyệt san Hiện Đại, một tập san văn học nghệ thuật, một diễn đàn độc lập, không nhận tài trợ từ các cơ quan nhà nước và nước ngoài như Chỉ Đạo, Sáng Tạo…. Ngay trên Hiện Đại số 1 ra tháng 4 năm 1960 với chuyên đề Truy niệm những nhà văn, thơ đã từ trần với các bài viết về Hoàng Đạo, Albert Camus, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Thâm Tâm, Phan Huy Vịnh còn có những sáng tác mới của Mặc Đỗ, Duy thanh, Nguyên Sa, Mai Thảo, Thái Thủy… Đáng chú ý: ngay số Hiện Đại ra mắt độc giả, Nguyên Sa đã đăng cùng một lúc 3 bài thơ của Trần Thy Nhã Ca với lời giới thiệu hết sức trang trọng “đây là một thi tài đặc biệt” : Bài Nhã ca thứ nhất – Thanh Xuân – Ngày tháng trôi đi, gây chú ý với, không chỉ các “nhà văn trẻ” cùng thời mà còn với độc giả cả nước! Lập tức câu hỏi: Trần Thy Nhã Ca là ai luôn được đặt ra và không có câu trả lời. Mãi cho đến những tháng sau đó, thơ truyện của bà liên tục xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn thì mọi người mới vỡ lẽ; đặc biệt, thi tài của bà được khẳng định khi tập thơ đầu được giải văn chương toàn quốc năm 1965 với tập Nhã ca mới! So với các văn bản in sau này, thì bài Nhã Ca thứ nhất, trên Hiện Đại số 1 chỉ có 4 khổ, thiếu đi khổ thứ 3: Tôi làm con gái Không rõ khi chọn đăng, Nguyên Sa có cắt đi khổ thứ 3 hay sau này Nhã Ca viết thêm khổ thơ này khi in thành sách? Trong bài viết Nữ tính trong ngôn ngữ Nhã Ca trên Văn số 35, ngay ở những dòng đầu, nhà phê bình Đặng Tiến đã dẫn 4 câu thơ cuối cùng trong bài Thanh xuân: Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Còn Du Tử Lê, khi nhớ lại 3 bài thơ của bà xuất hiện trên Hiện Đại và những bài thơ khác, đã vung bút, ca ngợi hết lời trong bài viết: “ Nhã Ca, bật sáng những ngọn đèn tâm thức soi thấu đáy tầng vô thức” (https://tusachtre.com/nha-ca-mot-xuat-hien-ruc-ro-cua-van-hoc-mien-nam/) và ví von: “Thơ bà xuất hiện, như tiếng nổ lớn của một khối thuốc nổ TNT” . Nhận định này của Du Tử Lê không phải là không có căn cứ: Ta hãy nhớ lại khoảng thời gian trước thập niên 1960, ngoại trừ nhóm sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi… còn lại, thơ ca vẫn mang hồn cốt của Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…; vẫn mang dáng dấp của những mối tình tan vỡ, đau thương; vẫn là những đạo lý của người phụ nữ phương Đông trong “khung cửa hẹp”. Những Tương Phố, Mộng Tuyết lớp trước và Tôn Nữ Hỷ Khương, Lệ Khánh lớp sau luôn dẫn dắt người đọc bằng những vần thơ thất ngôn, lục bát từ những tình cảm riêng tư: lúc thì lên đồi, xuống dốc, quanh co những đêm trăng sáng; khi thì hoàng hôn tím, mưa rơi sầu muộn… với những tiếng than thầm chen lẫn niềm hân hoan tột cùng tình yêu thăng hoa. Ngay như Cung Trầm Tưởng khi xuất hiện trên văn đàn miền Nam, đã mang hơi hớm phương Tây bằng những dòng lục bát với ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc mới mẻ hơn, gần gũi với thời hiện đại hơn, nhưng Mai Thảo dạo ấy vẫn gọi đùa lục bát của Cung Trầm Tưởng là “Bà Huyện Thanh Quan mới!”.
Với Nhã Ca, khi đột phá vào thế giới thi ca miền Nam nửa cuối thế kỷ XX, vẫn sử dụng hình thức hoặc 4, hoặc, 6, 7 chữ nhưng khác với các nhà thơ nữ lớp trước ở chỗ: hình ảnh mới lạ, cấu trúc ngôn ngữ tròn chặt, tứ trong từng câu từng chữ lung linh, huyễn hoặc hơn dòng thơ niêm luật, nên mới thành ra “một khối thuốc nổ TNT” giữa làng văn nghệ Thủ đô ! Khối thuốc ấy, ban đầu là sự lựa chọn cách sống cho riêng mình, phá bỏ tất cả mọi lễ nghi phương Đông, khi bà bỏ nhà ra đi từ năm 19 tuổi để tìm cho riêng mình một đời sống lăn tròn vào xã hội bắt đầu có sự thay đổi dữ dội về mọi mặt của đời sống cá nhân lẫn quần thể rộng lớn, hướng đến tự do dân chủ, giải phóng mọi ràng buộc từ những nghi thức Nho giáo lạc hậu. Sự việc diễn ra tại thời điểm này là một điều rất cấm kỵ với phái nữ và hiếm khi xảy ra đối với các thiếu nữ đất thần kinh. Bà đã gửi gấm nỗi lòng, cùng những hành động của mình một cách trọn vẹn trong bài thơ Tiếng chuông Thiên Mụ như một lời tạm biệt Huế. Một tiếng nấc nghẹn với những tự thú mình là đứa con hư, chỉ vì phải: Đổi họ thay tên viết văn làm báo/Cơm áo dậy mồm ăn lơ nói láo: “Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi Võ Phiến nhận xét về Nhã Ca: “Cực đoan, táo tợn, đột ngột là đặc điểm của bà… Sống giữa một thời không còn cấm kỵ, mà sôi nổi, mà cực đoan, Nhã Ca mạnh dạn tự mình chọn lựa tình yêu của mình, con đường hạnh phúc của mình, con đường đời của mình. Bà không ngần ngại bỏ nhà ra đi, đổi họ thay tên, phiêu lưu trong cái nghề viết văn làm báo. Tự do, bà thích nói đến tiếng ấy: tự do trong thể xác, trong đời mình..." Nhã Ca là một nhà văn độc lập và bất khuất, bà cũng là một tiêu biểu rõ rệt nhất cho nền văn chương nhân bản của miền Nam trong thời kỳ 1954-1975”. (Võ Phiến, Văn Học Miền Nam – Thơ Miền Nam, NXB Văn Nghệ 1999)
Và Đặng Tiến thì: “Thơ Nhã Ca đày ải trần gian vào biên giới hư ảo của đê mê, thơ Nhã Ca là trầm luân trên từng sợi lông tơ, là thiên thu xóa nhòa trongchớp mắt. Đọc Nhã Ca là linh cảm cả hư không, trong từng thớ thịt, lẫn thể xác trong từng ý niệm vu vơ. Thơ Nhã Ca vừa mời gọi, vừa ôm ấp vừa quyến luyến. Thơ Nhã Ca là lối làm quen ở phút giã từ, là lúc vụt quên khi vừa sực nhớ. Vẻ đẹp Nhã Ca thật như một giấc chiêm bao, và giả như con sông Hoàng Hà từ trời xanh đổ về biển cả: Ai về đó mà thơm hồn lụa bạch
Bìa trước và trong Văn số 35, ngày 1/6/1965
Điều mà các nhà biên khảo, nhà thơ gọi thế giới thi ca của Nhã Ca là hư ảo, huyễn mộng, huyền thoại, khối thuốc nổ TNT hay cực đoan, táo tợn… có thể thu gọn trong bài thơ Đàn bà là mặt trời sau đây:
Vườn hoa nào cũng ở trước mặt chúng ta
Những tư liệu nhỏ này trước hết để tỏ lòng mến mộ một tài năng, nhân cách… và để có thêm tư liệu cho các SV khoa Văn rộng đường nghiên cứu 20 năm văn học Miền Nam./
| |
Nguyễn Lệ Uyên ================ |
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ