T.VẤN
& Bạn Hữu
Văn Học và Đời Sống
Nguyễn Lệ Uyên: Thơ Nhã Ca, một vài tư liệu nhỏ
(Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (1939- ), sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960-1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết.
Một số tiểu thuyết Nhã Ca đã được đưa lên màn ảnh. Hãng phim Việt của Đạo diễn Hà Thúc Cần đã dựng một phần “Giải Khăn Sô cho Huế” thành phim Đất Khổ. Hãng Lidac, với đạo diễn Lê Dân, đã đưa cuốn tiểu thuyết Cô Híp Py lạc loài lên thành phim Hoa mới nở. Hai cuốn tiểu thuyết khác của Nhã Ca, Đoàn nữ binh mùa thu và Tình ca trong khói lửa đỏ, cũng đã được hãng Phim Việt mua bản quyền.
Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội “biệt kích văn hóa”. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống “Việt Báo Daily News” tại Quận Cam.) (Nguồn: VIETMESSENGER.COM)
Nửa cuối thập niên 1950s đến đầu 1960s, diễn đàn văn học miền Nam là sự nối dài của Tự Lực Văn Đoàn, hiển hiện rất rõ trên Tân Phong, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Hữu… Chỉ đến khi nhóm Sáng Tạo ra mắt số đầu tiên tháng 10/1956 với tuyên ngôn “làm mới nền VHNT Việt Nam”, thì liền sau đó xuất hiện nhiều cây bút, chẳng những làm nên tên tuổi sau này mà còn tạo cho dòng văn chương miền Nam tràn đầy tính sáng tạo, tự do, nhân bản.
Đọc lại tạp chí Sáng Tạo số ra mắt, Mai Thảo đã vung bút đến 5 trang dưới tựa “Sài Gòn thủ đô văn hóa” để vẽ ra một viễn cảnh xán lạn của nền văn hóa văn nghệ trên miền đất tự do: “ Ánh sáng của Văn Hóa cháy lên hôm nay từ giữa lòng đời sống lớn rộng của dân tộc là một giòng máu bừng bừng mãnh liệt luân lưu trong một cơ thể chứa đựng cái vô hạn của những năng lực sáng tạo trẻ mạnh phong phú.Giòng máu bắt nguồn từ trái tim. Sài Gòn xuất hiện trên những kinh rạch tăm tối ngày nào, đã đổi thay để có thêm một hình thể tinh thần nữa: hình thể của một trái tim đập mạnh, với những đường máu, những lối ánh sáng đan chen nhau, tỏa đi trên toàn thể, toàn diện”. (Mai Thảo – Sài gòn thủ đô văn hóa, Sáng Tạo bộ cũ, số 1 tháng 10/1956)
Sau Sáng Tạo, nhiều tạp chí văn nghệ ra đời tại Sài Gòn, những người viết trẻ lần lượt xuất hiện và lấn át cả những cây đa cây đề trước đó: Đỗ Tốn, Vi Huyền Đắc, Mặc Đỗ, Tương Phố… Và, trong sinh hoạt văn nghệ khởi đầu cho tự do sáng tạo với nhiều khuynh hướng (kể từ thập niên 1960s), đã xuất hiện nhiều cây bút nữ khiến cho văn đàn miền Nam sôi động hẳn lên. Nhã Ca trong trường hợp đó!
Những trang viết đầu tay của bà khi còn là nữ sinh Trung học Đồng Khánh (Huế) đang trong thời kỳ tuổi mới lớn, giàu mộng mơ, tưởng tượng, cảm xúc chắt lọc, sâu lắng…
Khởi đầu, từ năm 1957 trở đi, thơ truyện của bà gửi đăng đều đặn trên các tuần báo tạp chí văn nghệ Sài Gòn với tên thật Trần Thị Thu Vân, nhưng tên tuổi cũng chỉ thàng thàng, không có gì nổi trội, chưa gây được sự chú ý, có lẽ do vốn sống chưa nhiều, chưa đụng chạm với thực tế bập bềnh nhiều lớp màu sáng tối lẫn lộn!
Phải đến năm 1960s, tên tuổi Nhã Ca mới được biết đến như một bông hoa đẹp giữa rừng thơ muôn màu sắc! Đó là khoảng thời gian Nguyên Sa đứng ra chủ trương nguyệt san Hiện Đại, một tập san văn học nghệ thuật, một diễn đàn độc lập, không nhận tài trợ từ các cơ quan nhà nước và nước ngoài như Chỉ Đạo, Sáng Tạo….
Ngay trên Hiện Đại số 1 ra tháng 4 năm 1960 với chuyên đề Truy niệm những nhà văn, thơ đã từ trần với các bài viết về Hoàng Đạo, Albert Camus, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Thâm Tâm, Phan Huy Vịnh còn có những sáng tác mới của Mặc Đỗ, Duy thanh, Nguyên Sa, Mai Thảo, Thái Thủy… Đáng chú ý: ngay số Hiện Đại ra mắt độc giả, Nguyên Sa đã đăng cùng một lúc 3 bài thơ của Trần Thy Nhã Ca với lời giới thiệu hết sức trang trọng“đây là một thi tài đặc biệt”: Bài Nhã ca thứ nhất – Thanh Xuân – Ngày tháng trôi đi, gây chú ý với, không chỉ các “nhà văn trẻ” cùng thời mà còn với độc giả cả nước! Lập tức câu hỏi: Trần Thy Nhã Ca là ai luôn được đặt ra và không có câu trả lời. Mãi cho đến những tháng sau đó, thơ truyện của bà liên tục xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ Sài Gòn thì mọi người mới vỡ lẽ; đặc biệt, thi tài của bà được khẳng định khi tập thơ đầu được giải văn chương toàn quốc năm 1965 với tập Nhã ca mới!
So với các văn bản in sau này, thì bài Nhã Ca thứ nhất, trên Hiện Đại số 1 chỉ có 4 khổ, thiếu đi khổ thứ 3:
Tôi làm con gái
Đời như heo may
Tình bằng cỏ dại
Giận hờn không khuây
Không rõ khi chọn đăng, Nguyên Sa có cắt đi khổ thứ 3 hay sau này Nhã Ca viết thêm khổ thơ này khi in thành sách?
Trong bài viết Nữ tính trong ngôn ngữ Nhã Ca trên Văn số 35, ngay ở những dòng đầu, nhà phê bình Đặng Tiến đã dẫn 4 câu thơ cuối cùng trong bài Thanh xuân:
Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh, em cũng tợ sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ,
để nhắc đến “Người đàn bà trong thơ là một huyền thoại: thơ trong người đàn bà là một huyền thoại khác. Thơ của người đàn bà là huyền thoại của huyền thoại, là thơ của thơ. Cách đây đúng năm năm, cũng vào mùa này, Nhã Ca đến với người đọc một cách bất ngờ, nhẹ nhàng như người đẹp trong tranh. Người ta nghe không gian xôn xao trong cái chớp mắt trầm buồn đến mênh mông của người con gái Huế” (Văn số 35 ngày 1/6/1965).
Còn Du Tử Lê, khi nhớ lại 3 bài thơ của bà xuất hiện trên Hiện Đại và những bài thơ khác, đã vung bút, ca ngợi hết lời trong bài viết: “ Nhã Ca, bật sáng những ngọn đèn tâm thức soi thấu đáy tầng vô thức” (https://tusachtre.com/nha-ca-mot-xuat-hien-ruc-ro-cua-van-hoc-mien-nam/) và ví von: “Thơ bà xuất hiện, như tiếng nổ lớn của một khối thuốc nổ TNT”.
Nhận định này của Du Tử Lê không phải là không có căn cứ: Ta hãy nhớ lại khoảng thời gian trước thập niên 1960, ngoại trừ nhóm sáng Tạo, Thế Kỷ Hai Mươi… còn lại, thơ ca vẫn mang hồn cốt của Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương…; vẫn mang dáng dấp của những mối tình tan vỡ, đau thương; vẫn là những đạo lý của người phụ nữ phương Đông trong “khung cửa hẹp”. Những Tương Phố, Mộng Tuyết lớp trước và Tôn Nữ Hỷ Khương, Lệ Khánh lớp sau luôn dẫn dắt người đọc bằng những vần thơ thất ngôn, lục bát từ những tình cảm riêng tư: lúc thì lên đồi, xuống dốc, quanh co những đêm trăng sáng; khi thì hoàng hôn tím, mưa rơi sầu muộn… với những tiếng than thầm chen lẫn niềm hân hoan tột cùng tình yêu thăng hoa. Ngay như Cung Trầm Tưởng khi xuất hiện trên văn đàn miền Nam, đã mang hơi hớm phương Tây bằng những dòng lục bát với ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc mới mẻ hơn, gần gũi với thời hiện đại hơn, nhưng Mai Thảo dạo ấy vẫn gọi đùa lục bát của Cung Trầm Tưởng là “Bà Huyện Thanh Quan mới!”.
Với Nhã Ca, khi đột phá vào thế giới thi ca miền Nam nửa cuối thế kỷ XX, vẫn sử dụng hình thức hoặc 4, hoặc, 6, 7 chữ nhưng khác với các nhà thơ nữ lớp trước ở chỗ: hình ảnh mới lạ, cấu trúc ngôn ngữ tròn chặt, tứ trong từng câu từng chữ lung linh, huyễn hoặc hơn dòng thơ niêm luật, nên mới thành ra “một khối thuốc nổ TNT” giữa làng văn nghệ Thủ đô !
Khối thuốc ấy, ban đầu là sự lựa chọn cách sống cho riêng mình, phá bỏ tất cả mọi lễ nghi phương Đông, khi bà bỏ nhà ra đi từ năm 19 tuổi để tìm cho riêng mình một đời sống lăn tròn vào xã hội bắt đầu có sự thay đổi dữ dội về mọi mặt của đời sống cá nhân lẫn quần thể rộng lớn, hướng đến tự do dân chủ, giải phóng mọi ràng buộc từ những nghi thức Nho giáo lạc hậu. Sự việc diễn ra tại thời điểm này là một điều rất cấm kỵ với phái nữ và hiếm khi xảy ra đối với các thiếu nữ đất thần kinh. Bà đã gửi gấm nỗi lòng, cùng những hành động của mình một cách trọn vẹn trong bài thơ Tiếng chuông Thiên Mụ như một lời tạm biệt Huế. Một tiếng nấc nghẹn với những tự thú mình là đứa con hư, chỉ vì phải: Đổi họ thay tên viết văn làm báo/Cơm áo dậy mồm ăn lơ nói láo:
“Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Tiếng chuông đến và đi chỉ mình tôi thấy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rời như lệ mẹ hiền
Tiếng chuông tan lâu như mưa ngoài phố
Tiếng chuông tan dài như đêm không ngủ
Tiếng chuông tan tành như tiếng vỡ trong tôi”
Võ Phiến nhận xét về Nhã Ca: “Cực đoan, táo tợn, đột ngột là đặc điểm của bà…
Sống giữa một thời không còn cấm kỵ, mà sôi nổi, mà cực đoan, Nhã Ca mạnh dạn tự mình chọn lựa tình yêu của mình, con đường hạnh phúc của mình, con đường đời của mình. Bà không ngần ngại bỏ nhà ra đi, đổi họ thay tên, phiêu lưu trong cái nghề viết văn làm báo. Tự do, bà thích nói đến tiếng ấy: tự do trong thể xác, trong đời mình…”
Nhã Ca là một nhà văn độc lập và bất khuất, bà cũng là một tiêu biểu rõ rệt nhất cho nền văn chương nhân bản của miền Nam trong thời kỳ 1954-1975”. (Võ Phiến, Văn Học Miền Nam – Thơ Miền Nam, NXB Văn Nghệ 1999)
Và Đặng Tiến thì: “Thơ Nhã Ca đày ải trần gian vào biên giới hư ảo của đê mê, thơ Nhã Ca là trầm luân trên từng sợi lông tơ, là thiên thu xóa nhòa trongchớp mắt. Đọc Nhã Ca là linh cảm cả hư không, trong từng thớ thịt, lẫn thể xác trong từng ý niệm vu vơ. Thơ Nhã Ca vừa mời gọi, vừa ôm ấp vừa quyến luyến. Thơ Nhã Ca là lối làm quen ở phút giã từ, là lúc vụt quên khi vừa sực nhớ. Vẻ đẹp Nhã Ca thật như một giấc chiêm bao, và giả như con sông Hoàng Hà từ trời xanh đổ về biển cả:
Ai về đó mà thơm hồn lụa bạch
Cổ chim xanh còn quấn quít tơ vàng
(Đặng Tiến, Nữ tính trong ngôn ngữ Nhã Ca, Văn số 35 ngày 1/6/1965)
Bìa trước và trong Văn số 35, ngày 1/6/1965
Điều mà các nhà biên khảo, nhà thơ gọi thế giới thi ca của Nhã Ca là hư ảo, huyễn mộng, huyền thoại, khối thuốc nổ TNT hay cực đoan, táo tợn… có thể thu gọn trong bài thơ Đàn bà là mặt trời.sau đây:
Vườn hoa nào cũng ở trước mặt chúng ta
Mùa xuân nào cũng nở cho ta những bông hồng
Hỡi các chị, chúng ta đều đẹp như mặt trời
Tinh khiết như bình minh
Vì chúng ta làm ra ái tình
Ra hoa lá và sự sống trên trái đất
.
Những người nam đã tán tỉnh chúng ta
Và chúng ta đã chọn cho lòng mình
Một ông vua
Trong những người nam đã gặp
Hỡi các chị đến gần tôi coi
Đến gần tôi và cùng rực rỡ
.
Chúng ta đã tạo một thiên đường
Đã tạo nên nhiều vị vua
Bởi chúng ta đẹp đẽ và xinh tươi
Vì những ham muốn đã tắm rửa cho chúng ta
Xui chúng ta nóng bỏng như lửa
Và lửa từ mặt trời
Mặt trời xinh đẹp
Chị có đôi mắt sâu như giếng nước phương Nam
Chị có tóc mun đen như dòng sông đêm Ai Cập
Chị có lòng nồng nàn, dữ dội như biển đông
Chị có ái tình ngọt như mật ong
Tôi sẽ tới van xin các chị
Nài nỉ các chị cho tôi mượn tất cả
Để tôi khoe với chàng
Đem tới cho chàng
Để chàng nâng niu
Coi tôi như công chúa
.
Chúng ta, mỗi người phải là một công chúa
.
Người đàn bà nào cũng đẹp
Mùa xuân và hoa hồng đều nở vì chúng ta
Chúng ta ban phát ái tình
Cho thiên đàng của chúng ta tươi tốt mãi
.
Chúng ta mua từ núi cao
những màu xanh rất non
mua từ rừng
những lá cây rất vàng
mua từ đất
những giếng nước rất ngọt
và từ biển
trân châu cùng ngọc bích
để trang điểm cho chúng ta đẹp đẽ
Chúng ta góp sông, núi, đồi trên thân thể
và rừng trong tóc
.
Tôi sẽ hỏi mượn các chị
mọi thứ xinh đẹp và nóng bỏng
tôi sẽ gõ các cánh cửa im lặng thật nhẹ
để chàng kinh hoàng nhận ra tôi
.
Tôi sẽ làm rụng hết những giọt sương
đang lóng lánh trong hồn chàng
những giọt sương sẽ rụng và làm nên hài nhi
cùng sự sống
cho thiên đàng chúng ta
đông đúc và vui tươi
Tôi sẽ là mặt trời trong lòng chàng
Buổi mai nào cũng lộng lẫy rực rỡ
.
Tôi sẽ mát như trăng nhưng cũng nóng hơn lửa
hơn cát ở sa mạc
hơn cả cơn giận
của trận hồng thủy trong thánh kinh
Bởi tôi là đàn bà
người đàn bà nào cũng xinh đẹp
cũng làm ra sự sống
.
Hỡi các chị chúng ta sẽ nối tiếp nhau đẹp mãi
Để những bông hoa của mùa xuân
Phải quanh quẩn chiêm ngưỡng
.
Hỡi các chị hãy đến đây và làm điên đảo
Sự quay cuồng vui thú của trái đất
Chúng ta luôn luôn xinh đẹp và ở trên cao
Các chị có đôi vú ngọc bích
Có da sữa, tóc dài
Có má hiền, môi mật
Đừng để những kẻ đi săn lạc đường
Hãy dẫn dắt và tội nghiệp họ
Hãy hung dữ với họ như sư tử
Hãy dịu dàng với họ như nai
Để họ quay như trái đất quanh mặt trời
Là chúng ta mãi mãi
Để chúng ta cho họ ngày đêm và bóng tối
.
Tôi sẽ lùa bóng tối thật dầy vào đêm của chàng
những ánh sáng nóng bỏng cho ngày của chàng
.
Chúng ta là những người nữ xinh đẹp
Xinh đẹp hơn mọi loài trên trái đất
Chúng ta có lòng ghen mạnh như bão
Chúng ta có sự tinh khiết trong như trăng
Chúng ta có thịt da, có núi, có rừng
Chúng ta đỏ như mặt trời
Đen như đêm
Và vàng như lửa
.
Tôi cũng có một ông vua cho ái tình tôi
Tôi cũng đã chọn chàng
Để sự sống tràn trên trái đất
Tôi sẽ đi góp nhặt từ mặt trời
Từ phương đông, phương tây, từ những buổi sớm mai
Những sữa, kem và mật để làm nên rượu ngọt
Để pha hương thơm trên thân thể mãi mãi
Trên thịt da tôi mà chàng yêu dấu
.
Cám ơn Thượng Đế đã cho tôi đôi vú
cho tôi da mịn và tóc dài
cho tôi rực rỡ như mặt trời
để tôi làm ra ái tình và rượu ngọt
tràn trên trái đất
.
Hỡi các chị hãy đến nhìn tôi coi
Hỡi các chị vô cùng khả ái và xinh tươi
Hãy đến nhìn tôi coi
Tôi đang đỏ đang đen
Đang làm ra nước làm ra lửa
(Thơ Nhã Ca, NXB Thương yêu, 1972)
Những tư liệu nhỏ này trước hết để tỏ lòng mến mộ một tài năng, nhân cách… và để có thêm tư liệu cho các SV khoa Văn rộng đường nghiên cứu 20 năm văn học Miền Nam./
Nguyễn Lệ Uyên
PHỤ BẢN
Tập THƠ NHÃ CA – NXB THƯƠNG YÊU – SÀI GÒN – 1972 (Nguồn: VIETMESSENGER.COM)
©T.Vấn 2024
Nguyễn Lệ Uyên
Bài Mới Nhất
- Trần Vấn Lệ: NHỮNG BÀI THƠ THÁNG GIÊNG (2)
- Phan: CHA GIÀ CON MỌN
- Dương Đình Hưng: EM MANG MÙA XUÂN
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI SÁU
- Như Thương: NĂM MƯƠI NĂM MẤT HOÀNG SA (19.1.1974- 19.1.2024)
- Châu Thạch: CHÙM THƠ TÌNH KHÁC LẠ
- Nguyễn Thanh Sơn: HỒI XUÂN
- Ngân Bình: CÒN ĐÓ CHỮ DUYÊN
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI LĂM
- TẬP THƠ VĂN HỌC CỎ THƠM SỐ 16 -THÁNG 1, 2024
- Vương Trùng Dương: Lời Ngỏ Âm Nhạc & Người Muôn Năm Cũ
- Đặng Xuân Xuyến: CHÙM THƠ VỀ MÙA XUÂN…
- Nguyên Lạc: ĐÊM TRẮNG TUYẾT
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI BỐN
- Lê Tất Điều: Vũ Trụ không hề có Hấp Lực
- Nam Lộc: CÁNH CỬA TỰ DO ĐÃ MỞ RỘNG
- Khê Kinh Kha: RƯỢU, TRĂNG VÀ EM
- Đặng Tiến (Thái Nguyên): ĐOẢN CA VỀ MỘT CÁI CÂY GIÀ RŨ CHẾT/CÓ NHỮNG NGÀY/…
- Hoàng Thị Bích Hà: TẾT SẮP VỀ TÔI LẠI NHỚ TẾT XƯA
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI BA.
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI HAI.
- Hoàng Xuân Sơn: DẤU ĐÊM. VÀ CHIỀU RƠI CỦA HOA
- PHẠM HỒNG ÂN: NGƯỜI TÙ BINH ĐÊM GIAO THỪA
- Phạm Cao Hoàng: ĐÓA HOA HỒNG TRONG TUYẾT (Nhạc VĨNH ĐIỆN)
- Nguyễn Lệ Uyên: Thơ Nhã Ca, một vài tư liệu nhỏ
- Lê Hữu: Nghe một câu hát, nhớ một tiếng hát
- Trương Minh Cường: QUÊ HƯƠNG, MẸ VÀ TÌNH YÊU (Tuyển Tập 18 Ca Khúc)
- Nguyễn Hàn Chung: THƠ BỐN CÂU (29)
- Thai Ly: THÁNG CHẠP XƯA
- Lâm Hảo Dũng: Hoàng Hôn Chấp Chới Cuối Chân Mây…
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI MỐT
- Tiểu Lục Thần Phong: CHƯA TỪNG BÁI KIẾN
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ SÁU MƯƠI
- Lê Minh Hiền: CHÙM VÀO XUÂN
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ NĂM MƯƠI CHÍN.
- Phan: BẢY MƯƠI CHƯA PHẢI LÀ LÀNH…
- Hoàng Hưng: ĐÊM DU LỊCH…/CHÓ ĐÁ
- Nguyễn Thiên Nga: THƠ DỆT BẰNG SỢI TẦM GAI
- SÀI GÒN NGÀY PHONG TỎA THỨ NĂM MƯƠI TÁM
- Tình Ca Phạm Anh Dũng: ĐÁ VÀNG (thơ Hồng Khắc Kim Mai, nhạc Phạm Anh Dũng)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét