Miền Bắc sau 1954 (I)

1

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ

Trần Dần năm 28 tuổi (1926-1997). Nguồn ảnh: TL gia đình

(Trích bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần sáng tác năm 1955, đăng trong Giai Phẩm Mùa Xuân 1956)

Bài thơ của Trần Dần là hình ảnh tóm gọn đầy đủ về Hà Nội sau 1954. Không ai có thể nói hơn được Trần Dần qua bốn câu thơ đó. Nhưng cũng vì bốn câu thơ này đã làm ông lao đao suốt cả đời. Kể từ đó, không ai viết về Hà Nội như thế được nữa. Đó là Hà Nội thật. Hà Nội đổi chủ. Hà Nội sau 1954.

Phải đợi đến Nguyễn Ngọc Lan, sau 1975, ra thăm miền Bắc về viết bài: Hà Nội tôi thế đấy trên tờ Đứng Dậy. Thế đấy là thế nào? Là nghèo nàn, đói rách, tả tơi? Nguyễn Ngọc Lan không nói, để tự người đọc hiểu thế nào thì hiểu. Nhưng Hà Nội hiểu Nguyễn Ngọc Lan xỏ xiên. Không lâu sau 1975 thì đến lượt Nguyễn Ngọc Lan lại bị thất sủng. Viết bài này, tôi nhớ đến hai người ấy.

Bốn giờ sáng ngày 9 tháng 10 năm 1954. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày mà còn nhiều cán bộ nhớ lại là trên đường về Hà Nội: “Tôi nhớ chuyến xe hôm ấy về Hà Nội, hành khách đua nhau hát suốt dọc đường.” (Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, trang 37)

Những ngày đầu phấn khởi

Nhà thơ Trần Dần hơn ai hết đã ghi lại trong nhật ký những ngày đầu tiếp thu Hà Nội với niềm tự hào và tin tưởng. Trần Dần, Ghi 1954-1955 như sau.

“Từ ngày hôm qua sang ngày hôm nay là chuyển hẳn từ hai chữ Chiến Tranh sang hai chữ Hoà Bình. Những tiếng đồng hồ này có một giá trị đặc biệt. Dần dần, người ta mới thấy giá trị của những tiếng đồng hồ đó. Số mệnh, nhiệm vụ của hằng triệu con người thay đổi hẳn… Nhưng (…) sự thay đổi nó dần dà, góp gió, góp gió mãi, tôi đợi một cơn Bão chưa lên.

Hôm nọ có bà bảo tháng 10 thì vui thế. Ngày 10 tháng 10 là ngày tiếp quản Hà Nội. Một phút mà cách nhau hai chế độ mấy trăm năm”.

Đó là cảm nhận kỳ diệu của thời gian của một kiếp người. Một phút trước là nô lệ, một phút sau là con người của tự do.

Ngày ấy người ta say mê, đầy tương lai trong người. Có cán bộ hay nhắc lại những ngày đó. Cho là dân chóng quên. Không thấy hạnh phúc của mình. Hoài Thanh diễn thuyết ở đảng xã hội cũng nói vậy. Chúng ta chóng quên. Quên mất hạnh phúc lớn của mình. Tôi cũng đồng ý là nên nói như vây.Với điều kiện là phải nghĩ rằng: chúng ta không thể ăn được bằng dư vị bữa tiệc tháng 10 ấy.

Hà Nội với rừng cờ, biển người

Trong một bài viết trước đây của tôi, tôi cũng chia xẻ tâm tình của người Hà Nội những ngày tháng 10, 1954 như sau:

“Rừng cờ, rừng người, một rừng cánh tay giơ lên. Thật khó diễn tả cho hết những gì người ta nhìn thấy. Trong rừng người tiến vào thành phố, thật khó để biết ai là sĩ quan chỉ huy. Chẳng ai có thể nhận ra những đồng chí như Bùi Quang Tạo, Trần Đăng Ninh, Hoàng Văn Thái, Võ Nguyên Giáp, Lê Liêm. Người ta nhốn nhác tìm bóng dáng ông Giáp hay ông Hồ nhưng không thấy. Vài ngày sau, qua báo chí, người dân Hà Nội được biết các ông ấy đã về tới Hà Nội, nhưng ở đâu thì không ai hay.”

Hà Nội đã thay đổi diện mạo. Với rừng cờ đỏ. Ở đâu ra mà sẵn vậy?

Đâu đây, người ta thấy một tấm biểu ngữ lớn với hàng chữ thô kệch văn chương lắm:

Cùng nhau múa hát mấy bài
Khải hoàn ngợi khúc xây đài vinh quang

Người ta nhận thức ngay được phải ứng xử thế nào trong hoàn cảnh mới. Có một chút nhạy bén và sức lan truyền đến lạ lùng trong đám thị dân năm thành phần được cách mạng công nhận là thợ thuyền, nông dân, binh sĩ, tiểu tư sản và tiểu tư sản yêu nước. Các cô gái con nhà, yểu điệu thục nữ, mượt mà, quần lụa trắng, áo dài mà mỗi bước đi cố gắng vắt xéo đôi chân từ bên này qua bên kia nay áo cánh nâu, quần đen, tay cầm lá cờ đỏ.

Đôi guốc son thời con gái nay đổi ra đôi dép cao su, hiệu con hổ mầu trắng. Những cô gái áo dài quần lụa trắng vắng bóng dần. Thay vào đó là những áo cánh nâu chật chội với những thân hình con gái vạm vỡ, lực lưỡng như những lực điền, đi đứng huỳnh huỵch. Những ông công chức với thói quen complet, cravatte, giầy da, mũ phớt lọt thỏm trong đám đông người với những mũ tai bèo.

Nó báo hiệu một thời đã hết. Bời vì lúc ấy nghèo là một chứng chỉ tốt, giầu chỉ thêm mối lo. Vì thế, cũng không thiếu người đã “giả nghèo” chẳng khác gì “giả câm, giả điếc”, “giả ngu ngơ”.
Hoàn cảnh lúc bấy giờ, nó có sự ngược chiều vô lý. Người Hà Nội “giả đi xuống”, che dấu đủ thứ. Người mới tới lại thích phô ra. Họ săm săm đi tìm những phế thải lỗi thời còn để lại. Một anh cán bộ vẫn mũ tai bèo, nhưng gắn thêm đôi kính râm vào mặt, chiếc bút máy parker gài trên túi. Chiếc đồng hồ đeo tay phô ra. Trông anh lố bịch thêm. Nhiều anh không ngại ra tiệm trồng răng gắn thêm hai chiếc răng vàng để cười cho sang. Ở nhà thì ráng mua cho bằng được cái màn tuyn nằm cho thoáng, bõ những ngày muỗi cắn, đi ra đi vào súng sính trong bộ pyjama. Hứng quá, thoải mái quá. Mặc luôn bộ đồ ngủ đi ra ngoài đường cho tiện.

Các nữ cán bộ thì một chút thoang thoảng môi son, chút má hồng. Đủ để cho người ta biết người mình thơm tho. Nhưng lộ liễu quá thì chưa tiện. Và tại sao chối từ một chút nước hoa thay cho mùi ngai ngái của mồ hôi, mùi tóc muối lâu ngày.

Cứ như thế mà cuộc đấu tranh ai thắng ai trong mỗi con người cứ lớn dần lên. Người ta cảnh cáo cẩn thận hiện tượng mất bản chất. Nhà văn Vũ Thư Hiên kể cho tôi nghe, về Hà Nội là rủ nhau đi mấy quán ăn ngon cho đỡ thèm. Cũng bị bá cáo và cảnh cáo.

Cảnh cáo cho có lệ. Nhưng chắc chẳng ai thèm nghe.

Phải chăng đó là những sự thay đổi tận gốc rễ của người Hà Nội và cả của người mới tới?

Các bà mệnh phụ trước đây cứ một bước lại ngồi xe tay nay lạch bà lạch bạch ráng theo đoàn người đi tới. Mọi người hình như bằng mọi cách khuôn ép, tự sắp xếp mình vào năm thành phần trên. Đường phố vốn nhỏ hẹp nay chật cứng người như nêm cối. Như tự phát, từng đám người như thế lũ lượt như những đám rước trên đường phố hết đám này đến đám khác. Trong đám đông ai đó hô Hồ chủ tịch muôn năm! thế là cả cái cỗ xe người đồng lượt vung cánh tay hô theo. Họ ùn ùn kéo đến Nhà Hát Lớn, đi qua rạp chiếu bóng Eden, nhà in Viễn Đông, còn được gọi là nhà in Ideo, hướng về phía vườn hoa Con Cóc rồi Bắc Bộ phủ. Nổi bật là những đám thanh thiếu niên, không biết bằng cách nào và từ bao giờ, ăn mặc như hướng đạo mà mỗi em đều quàng một chiếc khăn quàng đỏ.

Hình như cả thành phố chỉ có dân chúng chứ chưa có bóng dáng người lãnh đạo.

Vậy mà cái guồng máy đó chạy đều, nhịp nhàng hăm mươi bốn trên hai mươi bốn. Thành phố như vô chủ, chỉ có đám đông, chỉ có người gặp người, người nhìn người, đi ngược, đi xuôi. Gặp nhau có lối chào mới: giơ nắm tay đồng loạt hô to. Muôn năm, muôn năm!!
Chẳng có gì có thể tả hết được cái ngày như thế, cái khung cảnh như thế, cái vận hành, cái chuyển đổi, lột xác như thế.

Những đoàn người cuồn cuộn như dòng nước lớn không dứt, hết đám này đến đám khác cho mãi đến nửa khuya và bắt đầu lại vào sáng sớm ngày mai. Chính quyền mới trong một tích tắc đồng hồ đã biến đổi đám người trước đây có thể là tiểu thương, viên chức của Pháp, nếu không nói là theo Tây, Việt gian của Tây trở thành một đám quần chúng hăng say mà không mất một ngày tập huấn.

Trong số ấy, có nhiều nhà tư sản kinh doanh hăng say nay muốn hiến hết cho chính quyền tài sản, cơ nghiệp. Họ phải tự giác, tự làm đơn chờ đợi xem có được chính quyền chấp nhận hay không, chấp nhận thành kẻ hợp doanh với nhà nước. Đó là một vinh dự cho họ được cải tạo từ chủ nhân nay trở thành người lao động. Sau khi được chấp nhận rồi, họ cất được cái mũ “phớt” tư sản để đội cái mũ” tai bèo”, để hội nhập xã hội mới với những tước danh mới như công thương gia yêu nước, kỹ nghệ gia tiên tiến hay cao hơn nữa được gia nhập Mặt Trận Tổ Quốc và may mắn hơn, xúc động đến oà nước mắt nếu được “xuống” làm phó giám đốc xí nghiệp.
Nhưng thay đổi một cái mũ có đủ để thay đổi được cả một cuộc đời không?

Sau đó thì họ trắng tay, nhưng ngược lại họ trở thành nhân vật được mọi người kính nể. Họ là những người yêu nước tiêu biểu như các ông Ngô Tử Hạ, ông Nguyễn Sơn Hà, ông Bùi Hưng Gia, ông bà Trịnh Văn Bô. (Xem Mặt Thật, Thành Tín, trang 84)

Ở miền Nam sau này cũng như thế, nhưng ở mức quy mô và lớn gấp 10 lần. Họ tất cả đều hoan hỉ hiến cho chính quyền mới. Các vua kẽm gai, vua sắt, vua máy cầy, vua hãng dệt nay xuống thành thứ dân vô sản. Ôi, hạnh phúc biết bao, vì đã được đổi đời?

Trong số những nhân vật uy tín này, người viết có vinh dự được nghe danh ông Ngô Tử Hạ, người đã có công với cách mạng ngay từ những ngày đầu kháng chiến bằng cách in ấn các truyền đơn cho cách mạng và bây giờ hiến toàn bộ cơ sở nhà in, ấn loát cho chính quyền mới.
Nhưng giả dụ, ông Ngô Tử Hạ đã không hiến trước thì liệu ông có giữ được sản nghiệp không và liệu người ta có để yên cho ông làm ăn hay không? Nhưng không ai dám nêu câu hỏi vớ vẩn đó ra nên cũng không bao giờ có câu trả lời.

Tuy vậy, những ngày tháng ấy kéo dài chẳng được bao lâu, vì người ta phải đương đầu với thực tế trước mặt. Người ta dần dần thất vọng. Trong đó có Trần Dần. Và ông đã viết như sau:

“Tháng 10 là bữa tiệc lớn cho nhân dân thủ đô. Nhưng bây giờ là tháng 3.1955. Người ta phải ăn bằng những bữa cơm hằng ngày”…

Không thể ăn bằng ký ức một bữa tiệc từ năm ngoái

Câu hỏi được đặt ra saụ 5 tháng sống dưới chế độ mới. Người ta được gì?

Nỗi mừng, niềm vui qua mau và bây giờ là cuộc sống cơm áo với trăm điều phải lo.
Nay thì lo là chính, lo lấn át tất cả. Mừng là phụ.

Nỗi mừng nay biến thành nỗi lo và cả miền Bắc đều lo như vậy.

Bức màn tre phủ xuống trên toàn miền Bắc

Một bức “màn tre” đã phủ xuống trên toàn miền Bắc. Chữ bức “màn tre” lần đầu tiên được người ta dùng để thay thế cho chữ bức “màn sắt” quen thuộc để chỉ các nước cộng sản như Liên Xô hoặc Đông Âu.

Ngữ nghĩa chữ bức màn tre là chỉ thị một chế độ độc tài, khép kín, bưng bít che đậy không để lọt ra thế giới bên ngoài những gì đang xảy ra bên trong đó.

Trong vòng 20 năm, bức màn tre ở miền Bắc đã xảy ra 3 điều cực kỳ quan trọng là: Một là về chính trị, họ tiến hành chiến tranh nhằm xâm chiếm miền Nam. Hai là, về xã hội, khi cuộc di cư vừa chấm dứt thì vào khoảng tháng 5/1955, chính quyền miền Bắc quay trở lại chính sách Cải cách ruộng đất đã thực hiện từ 1953, sau đó tiến hành Hợp tác hóa nông nghiệp. Ba là, về văn hóa, trấn áp giới văn nghệ sĩ trong vụ án Nhân Văn giai phẩm.

Cả ba vụ việc đó đều dùng Bạo Lực “cách mạng” để đạt được mục đích bằng sự hy sinh xương máu của người dân theo đúng tinh thần của Các Mác: Bạo lực là bà đỡ của Cách Mạng.
Sau này liên lạc giữa hai miền Nam Bắc ngăn cách bởi bức màn tre này thành hai thế giới và sự liên lạc giữa hai miền giới hạn vào những tấm thư bưu phiếu. Nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn rồi mất hẳn. Số phận những người chọn ở lại hay bất đắc dĩ phải ở lại sau bức màn tre đó ra sao? Không còn ai biết được nữa.

Bài viết sau đây dành chọn để ghi lại hoàn cảnh miền Bắc sau 1954 với tất cả những trớ trêu lịch sử oan khiên và những hệ lụy từ chế độ đó mà ra.

Xin ghi tiếp phần nhật ký 1954 của Trần Dần để thấy được những thực trạng Hà Nội sau 1954 và những đổi thay, chuyển biến tâm trạng của nhà thơ Trần Dần.

Nhà thơ viết tiếp những suy tư của mình:

Về Hà Nội được đúng 10 ngày. Hà Nội ít thay đổi. Gặp bố. Anh Đường. Cháu Hà. Anh Lan. Gặp bạn. Trần Mai Châu. Một số người không gặp.

Nay thì những dự định khó thực hiện vì chính sách gò bó.Tôi bị bao vây. Chặt quá, ép quá… Tôi muốn gạt những núi định kiến mà ngoi lên thở.. Nhưng sao buồn thế? Khổ thế ? Nhiều lúc tôi tưởng như mất cả cuộc đời rồi. Tay buông xuôi. Chân duỗi thẳng. Tôi buồn như người đã chết.
Cái màn biểu diễn giáng xuống đầu tiên là việc đổi tiền từ tiền Đông Dương sang tiền cụ Hồ. Trong vụ đồi tiền này, người dân tự nhiên mất 2/3 tài sản của mình. Cụ thể là một bát phở trước đây giá là 3 đồng bạc Đông Dương. Mọi người đều bị móc mất số tiền ở trong túi. Nay muốn ăn một bát phở như thế, phải trả là 10 đồng, Người cộng sản quả là có tài tạo ra sự khan hiếm. Muối, đường, vải vóc tự nhiên trở thành khan hiếm. Và người ta kháo với nhau rằng, nếu cộng sản làm chủ sa mạc thì chẳng bao lâu, cát sẽ trở thành khan hiếm, phải xếp hàng mới mua được.
Cuộc sống kể từ ngày hôm nay báo hiệu những ngảy đen tối sắp tới.

20/01/1955

Những ngày cuối năm.

Tết năm nay ở Hà Nội. Ít cành đào quá. Hoa thủy tiên cũng hiếm. Hàng sách chưa thấy những bìa xanh đỏ. Phố Hàng Mã có ít hoa giấy. 10 giờ, phố xá đóng im ỉm. Vắng tanh vắng lạnh. Những dãy phố Bà Đanh này phản ảnh tình hình chính trị kinh tế bây giờ. Còn thiết quân luật. Những ngày đầu tiên của Hòa Bình còn gặp nhiều khó khăn. Nạn đói khu tư. Nạn di cư miền công giáo. Khu 4. Vụ Ba Làng nổi loạn. Hải Phòng phá giá đồng bạc. Các ổ Mỹ, Ngô Đình Diệm phá hoại hòa bình, kều người đi Nam. Đô la Mỹ vẫn làm người ta tốt mắt. Chính nghĩa thì nghèo.

Kinh tế ta vừa thoát khỏi nanh vuốt Mỹ Pháp, còn non yếu, như đứa bé sơ sinh đỏ hon hỏn. Cán bộ máy móc. Vụ thuế công thương gây một panique lớn. Các rạp hát ế khách. Các hiệu ăn chuyển sang phở nhiều. Giá hang đắt lên. Tiền Đông Dương ăn hơn 70 rồi. Nhiều người thất nghiệp. 6 vạn công nhân. 3 vạn cán bộ miền Nam. 30 vạn đồng bào miền Nam phải xếp việc. Trí thức không có việc. Nghệ sĩ chưa tìm được cách sống cho bằng trước. trường tư sụt đi nhiều. Báo chí bán rẻ, ế. Khả năng mua sách của Hà Nội sụt đi. Hiệu cúp tóc vắng. Cyclo bí, cơ quan cán bộ không đi. Lạp sường lồ mát phàn một đêm khéo lắm bán đưuợc cho hai người…

Đúng vây. Kẻ tà có đô la. Chính nghĩa không có tiền. Tùy từng người chọn đường.

(Trích Trần Dần, Ghi 1954-1960, Phạm Thị Hoài biên tập Văn Nghệ phát hành)

Đấy là bức tranh toàn cảnh đời sống miền Bắc sau 1954 được Trần Dần ghi lại đầy đủ và trung thực sau khi hòa bình trở lại. Bức tranh đó nhắc nhở người ta nhớ câu nói của Tacite xưa như sau:”

“Ils firent un désert et l’appelèrent Paix”. (Họ xây dựng nên một sa mạc và gọi đó là Hoà Bình).
Những suy nghĩ của Trần Dần viết ra là rất nhân bản, rất gần gũi và hơn 25 năm sau, tháng 10, 1991, một Trần Dần thứ hai xuất hiện. Sâu sắc hơn, cay đắng hơn, “tàn bạo” hơn. Đó là Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh khi ông viết về cuộc sống của ông, đúng hơn về tiểu đoàn 27 mà cho đến 75 chỉ còn sống sót 10 người trong số 500 người lúc đầu:

”Đến bây giờ, lúc này đây, bạn hãy xem thực chất quanh ta có gì khác hơn ngoài cuộc sống tầm thường và thô bạo của thời hậu chiến? Nền hoà bình này…Hừ hình như tôi thấy các mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết. Mặt thật bầy ra gớm chết. Bao nhiêu xương máu đã đổ ra”.
Dưới mắt Trần Dần quả thực Hà Nội đã không còn như trước nữa.
Nạn đói đe dọa là có thực.

Nạn đói đe dọa

Khu tư đã rơi vào cảnh đói kém, mất mùa như trong phúc trình của đại sứ Ba Lan. Trong bản báo cáo tháng gửi về nước ông, ông đại sứ viết:” Thị trường cần cung cấp thêm lúa gạo và các nông sản khác đang bị thiếu hụt nghiêm trọng. Cần phải ngăn ngừa nạn đói có thể xảy ra ở khu bốn là nơi hội đủ những triệu chứng như: hạn hán, ruộng đất bị bỏ hoang. Nếu Việt Nam không nhận được viện trợ to lớn về lúa gạo thì tình hình sẽ trở thành nguy ngập và cuộc bầu cử sẽ hết sức bấp bênh. Báo cáo của đại sứ Ba Lan tháng 3 như sau: “Một trong những khó khăn nhất mà các đồng chí của chúng ta gặp phải là nguy cơ xảy ra nạn đói… Hiện nay viện trợ của CHNDTQ đã tới nơi, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu. Vụ mùa tháng 5 không khả quan vì hạn hán kéo dài. May thay, nhờ có viện trợ Trung Quốc nên tháng 5, năm 1955, VNDCCH đã tránh được nạn đói”. Theo báo cáo của đại sứ Ba Lan: “Cuối tháng tư tình hình được cải thiện một chút nhờ gạo, gà và khoai lang gửi từ Trung Quốc đã sang tới nơi ”. (Báo cáo của đại sứ Pietka, Hà Nội, ngày 2/5/1955)

Không có viện trợ thực phẩm của Trung Quốc thì đói to.Tình trạng lương thực ở miền Bắc rất đáng lo ngại mà theo cách tính sơ khởi là mức tiêu thụ gạo không quá 250kg/ mỗi đầu người/ năm (1955 là 286kg/người. 1957 là 285.7kg/người).

Người Pháp cuốn gói ra đi

Nạn đói kém xảy ra phần lớn là do hậu quả sau chiến tranh và sự ra đi của người Pháp cuốn gói theo họ tất cả những gì có thể chở đi được. Người Pháp trù liệu chuyển vào Nam qua tầu chiến Mỹ toàn bộ xe cộ, xe tăng, thiết giáp, súng ống, đạn dược. Trong đó 200.000 tấn đã được dự liệu đưa vào miền Nam. Thêm vào đó là máy móc, trang thiết bị, nguyên vật liêu (raw materials) kho hàng, tất cả đã được chở vào miền Nam. Tính ước lượng trị giá bằng tiền vào khoảng 2000 triệu francs…Cũng vậy, có 29 trên 30 các xưởng kỹ nghệ của Pháp được tháo gỡ, chuyển vào Nam.

Vì thế, chính quyền mới sau khi tiếp quản các cơ sở kỹ nghệ phải đương đầu với tình trạng bất khả dụng hay khiếm dụng. Chẳng hạn, nhà máy xi măng Hải Phòng, chỉ sản xuất được bằng phân nửa so với trước đây. Sau này nhà máy được xây dựng lại do sự giúp đỡ của Liên Xô từ tháng 9-11/1955 và hoạt động 24/24 với 3 tốp thợ, mỗi tốp 2000 người. Tuy nhiên, cho đến 1956, nó cũng chỉ đạt được 61% tổng sản lượng của năm 1939. Sản lượng xi măng của nhà máy Hải Phòng là 400.000 tấn/năm, trước 1954 đủ cung cấp cho nhu cầu xi măng của miền Bắc.

Nhưng tệ hại nhất vẫn là mỏ than Hòn Gai, trước đây mỏ than Hòn Gai được trang bị máy móc của Mỹ. Năng xuất dĩ nhiên là cao. Nay người Pháp đã tháo gỡ trở đi thứ gi cần phải tháo gỡ, thứ gì dùng được và ngay cả thứ gì xét ra không dùng được, nhưng nếu có thể làm trở ngại cho việc sản xuất thì cũng không từ. Đó là tình trạng Sabotage, phá hoại trước khi bỏ đi. Ấy là chúng tôi không muốn nhắc tới sự phá hoại trực tiếp (sabotage) của nhóm tình báo của đại tá Lansdale vào những ngày cuối cùng của thời hạn 300 ngày theo Hiệp định Genèva.

Vì vậy, việc sản xuất than ở Hòn Gai đã phải quay trở lại thời kỳ tiểu công nghệ lấy sức của người lao động làm chính. Sẽ bốc dỡ than bằng tay, khuân vác bằng sức người. Bao nhiêu công việc nặng nhọc trước đây do máy làm thì nay con người phải lấy sừc người ra mà làm.
Từ đào bằng máy chuyển sang đào bằng tay, sự vận dụng sức người ờ đây phải được kể là vô cùng khó khăn và vất vả cho người lao động. Và chính quyền mới đã bắt đầu làm lại như thế đấy. Nghĩ tới mà khiếp sợ. Và nên nhớ rằng: với sức người, sỏi đá cũng thành cơm.

Nhà máy sợi Nam Định cũng chỉ hoạt động bình thường sau khi Trung Cộng tặng cho 500 máy dệt tự động vào đầu năm 1957. Nhà máy bột giấy (paper mill) cũng được Trung Cộng trang bị lại máy móc và nay hoạt động lại ở Thái Nguyên.

Nhưng quan trọng nhất là nhà máy cơ khí ở Hà Nội được Liên Xô tài trợ và bắt đầu xây cất vào tháng 12/1955. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, Volume 1, trang 262-263)

Con đường xây dựng Xã Hội chủ nghĩa từ 1954 đến 1975 và từ 1975 đến nay đã đi được bao nhiêu đoạn đường và còn cần thời gian là bao nhiêu năm nữa?

Ruộng đất bỏ hoang

Lý do thứ hai gây khó cho chính quyền mới là ruộng đất bị bỏ hoang. Nhiều ruộng đất lúc chiến tranh đã bị bỏ hoang và chiếm 7% số ruộng đất canh tác ở miền Bắc. Ruộng đất và làng mạc của nông dân các vùng xôi đậu đã bị máy bay Pháp bỏ bom, hoặc nã đạn pháo mỗi ngày, đúng giờ, khoanh vùng tình nghi như một vùng khủng bố trắng “white zone”, giống như No man’s land của người Mỹ sau này. Nhiều khi, nông dân phải cầy cấy ban đêm vì sợ máy bay, sợ bị đạn pháo. Hơn nữa, cho dù có cầy cấy được thì đất canh tác thuộc vùng Trung Châu Bắc Việt vốn là vùng đất rice- deficit, năng xuất thấp, không đủ cung cấp cho cư dân Bắc Việt, hoặc chỉ là độc canh nên quanh năm thiếu hụt cần sự cung cấp lúa gạo từ trong Nam ra mỗi năm.

Nay tất cả nguồn cung cấp ấy không còn nữa.

Những ruộng đất ấy đã được canh tác cả hàng ngìn năm. Đất đã hẹp, mật độ dân số đông, ruộng đất bị khai thác triệt để như cấy hai mùa, cấy xen kẽ.

Đất không được nghỉ ngơi.

Mỗi mùa, cần đào sâu thêm để được đất mầu, đất tốt. Đào sâu thì chỉ gặp đất thịt, đất đen, mầu mỡ không cò. (Xem thêm Nông dân Bắc Việt, Nguyễn Văn Canh, trang 134)

Nạn lụt, hạn hán và giông bão gây mất mùa

Nếu chúng ta còn thuộc một vài câu ca dao còn sót lại để mô tả cái lo lắng của người nông dân miền Bắc, đã hẳn may ra hiểu đuợc hoàn cảnh của họ. Đó là hoàn cảnh bất lực của con người trước thiên nhiên với đủ thứ lo lắng:

Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề
Trông Trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời yên bể lặng, mới yên tấm lòng

Cho nên, kẻ thù truyền kiếp của người nông dân vẫn là thời tiết

Chẳng hạn như các vùng đất tân bồi chung quanh tỉnh Nam Định thường gặp thiên tai mỗi năm. Không lụt thì bão tố, không bão tố thì hạn hán.

John Kleinen, trong bài viết Access to Natural Resources for whom? Aquaculture in Nam Dinh, Viet Nam liệt kê các vùng như Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Ninh Cơ là vùng đất tân bồi với đụn cát, đất bùn, rộng 72.000 mẫu tây mà người ta chỉ có thể trồng trên đó những cây phi lao. Các vùng đó luôn bị lụt và bão có khi là cấp số 8-9/ giờ. Vì thế, người ta phải nhiều lần đắp các đê biển (sea dykes) từ những năm 1892-1900, 1934-1939 và sau này 1957-1962 và 1962-1971 để ngăn lụt và chống bão. Đê biển ở các vùng trên chạy dài đến 80 kilômét với mật độ dân số rất cao, trên 1000 người/km2.

Cho nên lụt cũng chết mà hạn hán cũng chết. Vụ mùa tháng 5.1954 thì hạn hán. Nhưng tháng 12, 1954 thì bị lụt. Lụt và hạn hán quanh năm làm khổ người nông dân miền Bắc. Sau này cũng vậy, vào năm 1959, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã ra trước Quốc Hội cho biết kết quả việc thu hoạch năm vừa qua là thảm bại: Trung bình thu hoạch chỉ là 1,4 tấn/mẫu. Ruộng tốt, trung bình có thể thu hoạch được từ 4 đến 5 mẫu.Vì thế, tổng cộng chỉ thu hoạch được 1,161,000/ tấn. Thiếu hụt 34,3 % của một mùa gặt bình thường.

Vậy mà nạn lụt đã xảy ra vào tháng 12/1954, ngay khi vừa tiếp quản xong Hà Nội. Đã lụt còn rét căm căm. Đói cộng lạnh là hai nỗi khổ của nông dân miền Bắc.

Đã thế, 90% đê điền ở miền Bắc cần phải được tu sửa. Trong lúc chiến tranh, máy bay đã phá hủy 8 hệ thống đập nước dung để tưới tiêu cho 252.000 mẫu ruộng. Sự sống còn của nông dân tùy thuộc vào sự sửa chửa tức thời hệ thống đê điền này nên chỉ trong vòng một năm 2 triệu 68 vạn ngày công đã dùng để sửa chữa hệ thống đê điền và sửa chữa 2750 kilômét bờ đê để tránh nạn lụt.

Lại một lần nữa cho thấy sự vận dụng sức người ở đây là ngoài sức tưởng tượng được.

Chính quyền mới bắt buộc phải nhập 150.000 tấn gạo từ Miến Điện mà mức thiếu hụt là 200.000 tấn/ năm. (Trích tóm lược Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam. Vol 1, Ken Post, trang 262).

Nạn thất nghiệp

Tính đến tháng 12/1954, nghĩa là sau hai tháng tiếp quản Hà Nội. Có 6000 cửa tiệm đóng cửa. Trước đây, các khu phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Than, trước cửa chợ Đồng Xuân, lúc nào cũng tấp nập kẻ buôn người bán. Nay chủ hoặc vào Nam hoặc tạm đóng cửa. Nhiều cửa hàng ăn lớn nay đổi ra tiệm phở. Gần 9000 chị em bán hàng rong hết đi rong. Không ai có tiền để ăn quà sáng, quà chiều nữa. 4000 thợ tiểu công nghệ như thợ may, thợ bạc phải đổi nghề, hoặc về quê làm ruộng. Chưa kể 20.000 thợ thuyền đủ loại không có công ăn việc làm.

Hà Nội vắng hoe vì thiếu những người bán hàng rong

Sư đoàn 308, Sư đoàn/Đại đoàn Quân Tiên Phong, vào Hà Nội (15/10/2008)

Trần Dần đã thấy một Hà Nội vắng bóng người. Bởi vì thiếu những người bán lẻ, lưu động. Những người bán hàng rong vốn là nét sinh hoạt cá biệt, sinh động của Hà Nội. Cái làm nên Hà Nội là Hà Nội. Đó là những “cửa hang lưu động” vốn liếng chỉ là quảy đôi quang thúng, hay đôi khi chỉ là một cái thúng đội đầu. Sang ra thì cửa hàng được thiết kế đằng sau chiếc xe đạp như các cửa hàng bán cá giống, bán chim cảnh, bán đồ chơi cho trẻ con, “ciné lưu động”, bán kẹo, nhất là kẹo kéo, bánh bao v.v… Nhiều cửa hàng này đi đến đâu được trẻ con bu lai chung quanh như coi phim (phim thường thường có bón lỗ để nhòm hai bên, phim câm, các loại phim thời đó như Zôrô bịt mặt, hay phim Tarzanv.v…) xem cá cảnh, bán kẹo kéo. Những tiếng rao hàng đủ loại từ sáng đến tối. Tiếng gõ “tục tắc” vui tai đến tiếng lè nhè ”phá xang” nay không còn nữa.
Hà Nội im lặng như Trần Dần mô tả.

Những cửa hàng “lưu động” như gánh phở, cà phê buổi sáng, rất hương vị, mùi cà phê, mùi phở buổi sang bay tỏa thơm đến thèm thuồng. Đó là những hương vị Hà Nội hay miếng ngon Hà Nội rất ấn tượng làm nên Hà Nội nay cũng không còn nữa.

Hà Nội “chết” theo cái nghĩa ấy. 9000 người trong số họ phải đổi nghề.

Những người như Trần Dần khi về Hà Nội thèm những hương vị ấy và thấy tiếc nuối cái không khí Hà Nội trước 1954.

Gạo ăn chỉ còn đủ cho 3 tháng. Xăng dầu cạn kiệt chỉ đủ cho một tháng.

Nhất là chính phủ hoàn toàn bất lực trong việc kiểm soát giá cả. Vải một mét trước 1954 là 350 đồng/mét, bây giờ là 495 đồng/mét. Đường 570đồng/kilô nay nhảy vọt lên 2900 đồng/kilo. Xăng dầu 310/lít nay là 1630/lít.

Sự trì trệ và xuống cấp thê thảm của sinh hoạt kinh tế miền Bắc

Kể từ 1955, miền Bắc chỉ giao thương với 7 nước trong khối xã hội chủ nghĩa và 3 nước ngoài khối. Việc xuất cảng nguyên liệu vốn là huyết mạch của kỹ nghệ miền Bắc như than đá, quặng sắt, kẽm.Nhưng mặc đầu còn đói kém, vậy mà lần đầu tiên 1957, ngoài Bắc đã có thể cho xuất cảng bột gạo, sắn, hoá chất Cronit và khoáng chất apatit mà tổng sản lượng lên đến 60% hàng xuất cảng. Việc nhập cảng với các nước anh em chìếm tỉ lệ 52% mà đến 54,6% hàng nhập cảng vào năm 1955 là để đổi lấy sản phẩm tiêu dùng mà miền Bắc chưa sản xuất được . Nhưng sang đến năm 1957, hàng nhập cảng đã tụt xuống còn 32% vào năm 1957. (Trích VNA reports, 18 and 21 June 1956, BBC 572, 26 June 1956, p.25)

Tuy nhiên, trên thực tế, chính quyền mới đã không làm được những điều đáng lẽ cần phải làm. Hoặc làm chưa đến nơi, đến chốn. Ông Dương Quang Đông, một đảng viên ở miền Nam đã có lúc phải thốt ra như thế này trên báo Nhân Dân:

Từ mười một năm nay, đảng tỏ ra không có khả năng cung cấp cho dân một hạt gạo nào, một miếng thịt nào, một giọt nước mắm nào và cũng không có khả năng ỗn định về giá cả. Dân khổ quá. Biện pháp tốt nhất là đảng nên để cho dân được tự do sản xuất, tự do sinh sống, tự do học hành.”

(Trích Việt Nam 1920-1945, Cách Mạng và phản cách mạng thời đô hộ thuộc địa, tác giả Ngô Văn, trang 367)

Xin trích dẫn nhận xét của Ken Post trong chương Crisis in the north về tình trạng miền Bắc vào giữa năm 1954:

“By mid-1954 the economy of Bac Bo and northern Trung Bo had suffered a serious decline in productive forces as a direct or indirect effect of the fighting. An area of riceland estimated at between 138.800 and 143.000 hectares, some 7 per cent total, had gone out of cultivation, mostly in so-called “white zones” where the French army had followed a shoot-on-sight policy. On the surface, this was not a large proportion, but it must be remembered that what had now become the” northern regroupment zone” of the new Viet Nam had always been a rice-deficit area in the colonial period, needing to import annually from Cochichina. Hence, any decline in production whilst the new” southern regroupment zone” was politically unstable and under continuing French and increasing US influence was a serious threat.”

(Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, volume 1, Kent post, trang 262)

Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong dịp phát biểu tại quốc hội, tháng 3. 1955 cho rằng: Hòa bình đã trở lại, cần có lãnh đạo tập trung, thống nhất và mạnh… để đáp ứng được những nhu cầu của chính phủ. Cần tăng gấp 80% viên chức nhà nước trong 3 năm.

Khi người Pháp ra đi, còn để lại 7000 viên chức trong số 20.000 người từng làm việc trong chính phủ Liên Hiệp Pháp. Những người ở lại làm việc theo cung cách cũ, thiếu nhiệt tình và tinh thần hy sinh.

Về lương bổng của những viên chức từng làm cho người Pháp, để lưu dụng họ, chính quyền mới cho họ vẫn giữ bậc lương cũ thời Pháp. Gọi là bậc “lương lưu dung”.Trong khi những người từng đi chiến đấu trở về thi thiếu kiến thức và năng lực chuyên môn nên ăn theo lương” kháng chiến”. Trái khoáy là lương một ông thư ký thời Pháp cao gấp đôi lương một ông Chánh án của chính quyền mới.

Vào khoảng cuối năm 1960, các viên chức ngưới Pháp mới tự nguyện xin rút lương và ăn theo lương như các cán bộ chính quyền mới.

Phải chiều lòng viên chức trong chính quyền người Pháp vì thiếu chuyên viên. Cụ thể như ở mỏ than Hòn Gai khi được chuyển giao cho chính quyền mới. Dưới thời quản lý của người Pháp thì có 21 kỹ sư và 62 chuyên viên, sau này chỉ vỏn vẹn còn 30 chuyên viên. Nhà máy dệt Nam Định đã không còn một kỹ sư nào ở lại. Để bù khuyết khoảng trống đó, từ 1955-1960 có sự chi viện lệ thuộc vào 3600 chuyên viên người Tầu, 1400 Liên Xô và 1000 người của các Quốc gia Đông Âu.

Cũng vậy, trong ngành giáo dục, các giáo chức trước đây dạy ở các trường công và trường tư vẫn được lưu dụng. Các trường như Chu Văn An, Nguyễn Trãi vẫn như cũ. Ngay các trường tư như trường Dũng Lạc, trường tư của Thiên Chúa giáo, nằm bênh cạnh nhà thờ Lớn Hà Nội vẫn được tiếp tục mở cửa. Đặc biệt không ngờ là trường Albert Sarrault của Tây cũng vẫn còn, vẫn dạy tiếng Pháp, chỉ có thay đổi là hiệu trưởng là người Việt.

Trong khi đó, ngân sách từ các năm 1955 đến 1957 đã dành 26.5% cho Quốc Phòng, Xây dựng 24.4 , hành chánh 14.5%. Cộng chung ba bộ này chiếm 65%. Phần còn lại dành cho kỹ nghệ có 2.7%, y tế 1.9% và giáo dục có 2.9%. (Trích Revolution, Socialism and Nationalism in Viet Nam, Volume 2, Viet Nam Divided, Ken Post, trang 52-55)

Với một ngân sách lệch như thế, chú trọng quá nhiều vào Quốc Phòng, đất nước làm sao khá lên được? Một ngân sách nghiêng về Quốc Phòng như thế, bởi vì kể từ năm 1958, đảng Lao động Việt Nam nhằm hai muc tiêu chiến đấu: chiến đấu xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến đấu hoàn thành cuộc gìải phóng miền Nam.

Sau này thì không phải chỉ có hơn 3000 chuyên viên Trung Quốc nữa. Biên giới phía Bắc được mở rộng để đón tiếp hàng nhập cảng từ Trung Quốc như một “con đường tơ luạ mới của thế kỷ này” cộng với đường biên giới mới của bản đồ được vẽ lại. Con đường tơ lụa nay được ủi phẳng mở đường cho xa lộ kéo dài từ Thái Nguyên, Việt Trì đi thẳng tới Hải Phòng, Hà Nội. Nhất là Khu kỹ nghệ Việt Trì (Viet Tri complex) trong kế hoạch 3 năm mà phần lớn vốn liếng do Trung Cộng đầu tư vào như đập thủy điện, nhà máy giấy, nhà máy mỳ chính, nhà máy thuốc trừ sâu, nhà máy cơ khí, nhà máy đường.Từ đó kích cầu các cơ xưởng kỹ nghệ địa phương, với 854 cơ sở, với đủ các nhà máy cùng với trang bị kỹ thuật, vốn liếng xuất phát từ Trung Quốc trải dài xuống các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn v.v… Người Pháp vừa xuống tàu về nước thì lại có người láng giềng đến thế chỗ. Bài hát 1000 năm đô hộ Tàu nay phải đổi lời lại như thế nào cho thích hợp? (Xem thêm Mặt Thật, Thành Tín, trang 15).

Tính chung đến thámg 7, 1955, nước anh em Trung Cộng đã giúp đỡ chính quyền mới về thực phẩm và trang thiết bị trị giá 325 triệu Mỹ Kim. Và Liên Xô là 150 triệu Mỹ kim. Không kể một vài nước anh em nhỏ khác như Tiệp Khắc, Đông Đức. (Trích Võ Nhân Trị, Croissance économique, 1967, trang 262). Sau này, trong việc quyết định “dạy cho Việt Nam một bài học”, Đặng Tiểu Bình mở chiến dịch vì cho rằng Việt Nam đã “vô ơn trước sự giúp đỡ trước đây”. Dĩ nhiên, mọi người hiểu rằng đây chỉ là một cái cớ.

Đã thế, sau chiến tranh và hòa bình đã trở lại, nhưng những viên chức cán bộ trong chính quyền mới đổ đốn ra làm việc còn nặng tính cách quan liêu, cửa quyền, bàn giấy. Họ chẳng khác gì những cán bộ trong chính quyền Xô Viết vào những năm 1925-1930. (Xem thêm Cuộc Cách mạng bị phản bội, L.Trôt-Ski, tủ sách nghiên cứu 1993, trang 12)

Đó là một thứ lạm phát chữ nghĩa do tuyên truyền cộng với lạm phát quyền lực do một thiểu số nắm giữ, lạm phát kinh tế do tham nhũng.

Tất cả các thứ lạm phát đó là một thứ thuế trực tiếp đánh trên đầu trên cổ giai cấp giới lao động và dân nghèo

Như Chế Lan Viên cuối đời thú nhận rằng, ông vẫn thường chỉ ăn bánh vẽ và tiếp tực ăn như thế. Bà Vũ Thị Thường, vợ nhà văn đã công bố bài thơ Bánh vẽ của ông có những câu như sau:

Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối.

(xem tiếp phần 2)