Nguyễn Đăng Mạnh - Chân dung và phong cách
- 12/02/2018 | 01:04 GMT+7
- 5.636 lượt xem
...Thầy ơi! Mai là ngày đưa tiễn thầy về nơi an nghỉ cuối cùng. Em không có đại bác để bắn khi tiễn đưa thầy, chỉ có "loạt" bài này. Dù câu chữ còn vụng dại, thô sơ, nhưng đấy là cả tấm lòng thơm thảo. Xin chia sẻ cùng bạn đọc bài của PGS. TS. Đỗ Ngọc Thống.
1. Đã từng "cùng khổ"
Đến thăm nhà ông bây giờ, tuy chưa phải biệt thự cao sang, nhưng cách đây hơn hai chục năm từng là niềm mơ ước khốn khổ của thầy. Ít người biết, Nguyễn Đăng Mạnh đã trải qua một thời gian khó. Cách đây không lâu, vào dịp cuối năm, ông bảo: "Đời sống vật chất nhà mình tăng dần theo cách chơi đào ngày Tết". Mỗi khi Tết đến, xuân về, vốn mê đào, bao giờ ông cũng tìm mua. Đào Hà Nội không thiếu nhưng ông phải mua một số nhánh đào để ghép lại, gọi là cho có cành đào ngày Tết... Nghe đâu ông đã từng bị kẻ nào lấy trộm mất cành đào "lắp ghép" ấy. Mấy năm nay, bao giờ ông cũng lên tận vườn đào Nhật Tân tìm cho được một gốc đào ưng ý. Có lần tôi hỏi:"Sao thầy không mua quất?" Ông bảo, chỉ người già mới hay chơi quất. Tôi bỗng liếc nhìn mái tóc đã điểm sương của ông... nhưng lại nghĩ thầm, đúng ông còn trẻ thật. Trẻ trong cách nghĩ, trẻ trong cách sống và trẻ trong cách viết. Thế hệ chúng tôi, mỗi khi tụ họp "nhậu nhẹt" thường nghĩ ngay đến việc cần phải mời cho được"cụ Mạnh".
Có ông hình như chuyện trò vui hơn, hình như không ai phân biệt già trẻ, thầy trò, cứ thế vui cười thoải mái, không câu nệ, khách khí, ít phải giữ gìn, ý tứ trong cử chỉ nói năng... Có nghĩa là ông hòa đồng vào lớp trẻ, thậm chí còn trẻ hơn nhiều "anh trẻ" khác. Về chuyện này, ông rất khác với một số vị giáo sư “mũ cao áo dài”, bao giờ cũng chăm chút cho mình một dáng vẻ đạo mạo, tạo ra bằng được một cốt cách đĩnh đạc, uy nghi. Nguyễn Đăng Mạnh không thế. Ông luôn "lòa xòa" mình đi, bình thường, dân dã. Từng cùng ông ở những khách sạn khá sang trọng và cũng có khi được "nhốt" chung ở một gian buồng không thể gọi là chỗ ngủ, cả hai nơi, tôi đều thấy ông vui vẻ chấp nhận. Không ít lần tôi thấy vợ ông phải "uốn nắn" và "chỉnh huấn" về trang phục trước khi ra đường. Ông tiếp thu ngay, sau đó ngồi sau xe, vừa cười, vừa kể cho tôi nghe câu chuyện về Anhxtanh một cách rất hóm hỉnh: Cái ông Anhxtanh khi chưa nổi tiếng ăn mặc rách rưới, có người góp ý, ông ấy bảo: tôi mặc thế cũng có ai biết tôi là ai đâu. Khi nổi tiếng rồi, ông ta vẫn ăn mặc như thế, người ta góp ý, ông lại bảo: tôi có mặc thế này người ta vẫn biết tôi là Anhxtanh cơ mà... Đấy ông thấy không, mình chẳng so bì được với Anhxtanh, nhưng quần áo có quan trọng gì đâu. Vấn đề là nghĩ và viết cho tử tế, cho nghiêm chỉnh".
Nguyễn Đăng Mạnh là người sẵn sàng ngồi xuống một quán nước cạnh vỉa hè, uống với bạn một li trà nóng, ăn một bát bánh đúc hay bún riêu cua nóng hổi. Những lúc như thế, tôi cứ nghĩ ông giống Nguyên Hồng, nhà văn mà ông cho rằng "đã viết rất hay về những thú ẩm thực của người dân nghèo. Người đọc cảm thấy ngon lành thật sự khi nhà văn tả một bữa cơm có rau muống chấm tương và quả cà pháo giòn tan, một bát canh cua đồng chan bánh đúc, hay một bát nước vối chế hắc hương... Đây là cây bút, từ tác phẩm đến con người, đều là hiện thân của cần lao, của đói nghèo với tất cả những đau khổ và chất thơ của nó”.
Trong Nguyễn Đăng Mạnh có một Nguyên Hồng chăng? Có đấy! Ông từng kể cho tôi nghe về những ngày gian khổ, thuở "chân đất đầu trần". Sinh năm Đảng ra đời, cách mạng tháng Tám đến, ông vừa tròn 15 tuổi. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cùng gia đình tản cư lên Thái Nguyên, học trung cấp sư phạm rồi trở thành người phụ trách môn Văn của Sở Giáo dục liên khu Việt Bắc. Những ngày kháng chiến gian khổ, “củ khoai, củ sắn thay cơm” ông làm công tác chỉ đạo môn văn thì ít mà vùi đầu vào đọc sách thì nhiều. Ông bảo chỗ ông ở có một nhà kho chứa rất nhiều sách được sơ tán từ Hà Nội lên. Và cứ thế, ông như con mọt sách, đọc cả ngày, cả đêm; nghiền ngẫm và ghi chép say mê...
Cho đến sau ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, về học Đại học sư phạm Hà Nội, rồi được phân công vào trường Đại học sư phạm Vinh... Suốt một chặng đường dài vẫn là những năm tháng gian khó và vất vả đối với ông: đi bộ, đạp xe hàng trăm cây số về Hà Nội đọc sách; những ngày sơ tán lên rừng, xuống biển, đêm đêm cùng Hoàng Ngọc Hiến soi đèn đi bắt ốc sên làm thực phẩm thay thịt, cá... và cho đến đầu những năm 90 của thế kỉ trước, cái đói khổ, sự thiếu thốn về vật chất vẫn còn là nỗi ám ảnh với gia đình ông...
Dễ hiểu vì sao ông rất thông cảm và thấu hiểu Nguyên Hồng. Viết về Nguyên Hồng ngòi bút của ông bao giờ cũng nặng trĩu yêu thương. Để kịp hoàn thành bài "Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng", ông vừa viết, vừa khóc trên trang giấy. Bài văn là tiếng khóc nghẹn ngào, một tiếng nói tri âm nặng tình, nặng nghĩa của Nguyễn Đăng Mạnh đối với nhà văn của tầng lớp nghèo khổ cần lao:
2. Những khái quát sắc sảo
Ai ở gần Nguyễn Đăng Mạnh cũng có thể thấy rõ điều này: ông vụng về trong nói năng, ứng xử đời thường. Ví như nhân dịp lễ tết cần phải nói đôi câu chúc tụng; khi vào bệnh viện thăm người ốm cần nói vài ba câu thăm hỏi, động viên; lúc chia tay tan cuộc cần nói đôi lời giã từ... tất cả trong những trường hợp như thế, tôi thấy ông cứ ấp a ấp úng, nói năng lúng túng, ngượng ngập... Cũng có những lúc ông phát ngôn rất bốc, rất hay; những đối thoại thẳng thắn, sắc sảo và dữ dội đến "nảy lửa"... Nhưng đó đều là ở các “tình huống có vấn đề”, không liên quan mấy đến sinh hoạt đời thường. Đó là ở những hội thảo khoa học, những buổi sinh hoạt, bảo vệ luận án hoặc tọa đàm, phát biểu trước công chúng... Và thường là lúc ông đối mặt với những ý kiến "dớ dẩn", "trái chiều"; trước những đối tượng mà ông cho là có cái gì đó rất "khó coi", "phản thẩm mĩ"...
Kể cũng lạ, vẫn là con người ấy thôi, trong đời thường nói năng ứng xử có vẻ "vụng về" sao trong văn chương lại sắc sảo, sâu lắng, tinh tế và tài hoa đến thế. Nhìn ở phương diện này, dường như người ta lại thấy trong Nguyễn Đăng Mạnh có nét uyên bác, tài hoa của Nguyễn Tuân; có tình cảm nồng nàn đắm say của Xuân Diệu; có giọng điệu mỉa mai bóng gió của Vũ Trọng Phụng; có thế giới nội cảm phức tạp, phong phú và sâu sắc của Nam Cao... Có lẽ vì thế mà rất nhiều bài viết của ông gần như là những sản phẩm "đồng sáng tạo" với các nhà văn mà ông yêu thích.
Trong phê bình văn học vẫn thường thấy hiện tượng này: người có ý rất hay nhưng văn viết không hay, hành văn khô cứng, ý tứ cứ trơ ra trên trang giấy; lại có người ý chẳng có gì mới, nhưng văn rất hay, biết cách diễn đạt độc đáo, khác lạ, lời văn mềm mại, uyển chuyển... Xin gọi vắn tắt hai hiện tượng ấy là có ý và có văn. Văn phê bình viết một cách sang trọng là những bài vừa có cả ý mới mẻ, vừa thấm đẫm chất văn. Rất ít người luôn thống hợp được hai yếu tố ấy trong tất cả các bài viết của mình. Nguyễn Đăng Mạnh là một trong số ít người viết văn phê bình một cách sang trọng. Đọc các bài viết của ông, người ta thấy có nhiều khám phá, khái quát mới mẻ, chính xác, thú vị và có sức thuyết phục về tư tưởng nghệ thuật, về phong cách nhà văn. Không ít những nhận xét, đánh giá về phong cách các nhà văn Việt Nam hiện đại đã in đậm dấu ấn Nguyễn Đăng Mạnh.
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta nhớ ngay đến khái quát của ông về cái ngông của một phong cách tài hoa, uyên bác: "Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông với thiên hạ… Đúng là muốn chơi ngông thì phải có tài. Làm khác đời mà không tài, người ta gọi là cái gì gì đó chứ không gọi là ngông. Vì thế, nhân vật Nguyễn Tuân thuần một loại tài hoa tài tử, dù là nam hay nữ, già hay trẻ, dù làm nghề nghiệp gì."
Nói đến Xuân Diệu, người ta nhớ ngay đến nhận xét của Nguyễn Đăng Mạnh về một nhà thơ sợ cô độc và khát khao giao cảm với đời, coi đấy là niềm hạnh phúc tuyệt vời trên thế gian này: "Ông muốn ôm tất cả cuộc sống này, riết lấy tất cả trong đôi tay hăm hở của mình. Và ông tha thiết được mọi người đến với mình:"Đây là quán tha hồ muôn khách đến" (Cảm xúc), ông mở rộng tâm hồn và chào mời tất cả và muốn lòng mình như phấn thông trên bãi biển bay vàng cả trời đất mênh mông, đem tình yêu đi khắp thế gian."
Với nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo, hàng loạt khái quát của ông đã bất tử hóa nhiều phong cách nhà văn Việt Nam. Vũ Trọng Phụng gắn liền với "Niềm căm uất không nguôi"; Nguyên Hồng sống mãi bởi "chủ nghĩa nhân đạo thống thiết"; Nam Cao được ghi nhận bởi vấn đề "Đôi mắt"... Nguyễn Đăng Mạnh cũng là người đầu tiên chỉ ra và phân loại sự nghiệp sáng tác văn học phong phú và đa dạng của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh theo những tiêu chí khoa học một cách sáng sủa, nhất quán và có sức thuyết phục cao... Những phát hiện, nhận xét và khái quát của ông thường được dồn nén trong một vài bài viết không dài. Với nội dung đó, có người đã "pha loãng" ra thành cả một cuốn sách.
Bên cạnh các nhà văn nổi tiếng trước cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đăng Mạnh còn dựng chân dung nhiều nhà văn hiện đại sau này rất có hồn, chính xác và sống động. Qua ngòi bút của ông, Nguyên Ngọc được xem là "con người lãng mạn"; Nguyễn Khải có cả dại và khôn; Chế Lan Viên, người luôn mang cái "ách nặng văn chương" cả đời; Tô Hoài luôn hóm hỉnh với quan niệm giản dị "con người là con người"; Nguyễn Đình Thi viết rất hay về đất nước,"nhưng đất nước này chỉ đẹp trong gian nan, vất vả, trong nhọc nhằn bất hạnh: "anh yêu em như yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần"; Chính Hữu viết cứ như "hành quân trên những trang thơ".v.v...
3. Những trang viết đẫm chất văn
Văn hay không chỉ ở những nhận xét, khái quát chính xác như vừa nêu mà còn thể hiện ở cách viết, cách diễn đạt. Văn phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh hay bởi ông biết tạo ra những lời văn sắc sảo, cách nói giản dị mà đầy ấn tượng; lời văn có giọng điệu riêng như truyền được cả những thái độ, tư tưởng, tình cảm chân thực, xúc động của người viết tới bạn đọc. Khi viết về tiểu thuyết ở xã Trung Nghĩa của Nguyễn Thi, chỉ với 3 câu văn ngắn dài khác nhau, ông diễn tả tài tình sự gấp gáp khẩn trương, cái không khí ngột ngạt, oi bức, dồn nén như muốn nổ tung lên tất cả - cái không khí ở xã Trung Nghĩa trước ngày đồng khởi: "Cuốn tiểu thuyết bỏ dở ở chương thứ ba. Bóng tối còn dày đặc bầu trời Trung Nghĩa. Nhưng ngọn lửa vĩ đại của cách mạng đã được chuẩn bị, không phải ở đâu xa mà ngay trong cái tâm trạng u uất của anh Hai Rô, trong cái thế đứng dữ dội của ông Tư Trầm trước mặt thằng cảnh sát, trong cái giọng nói dẽ dàng mà đáo để của chị Năm Bưởi, trong lời ru con lửng lơ mà hàm ý đe doạ của chị Hai Khê đối với thằng đại diện "mai kia phượng đáo về đình”, trong những câu chuyện ba lơn có tính chất như một thứ tiếu lâm hiện đại của ông Ba Lung và cái hành vi ngang ngược cũng rất tiếu lâm của ông khuấy động giấc ngủ của vợ chồng Ba Sồi và cũng khuấy động luôn cả vào cái trật tự của chế độ Mỹ - ngụy."
Nguyễn Đăng Mạnh đặc biệt có tài trong việc dựng lại không khí của tác phẩm hoặc diễn tả cảm nhận chung, ấn tượng chung toát ra từ thế giới hình tượng của tác phẩm bằng một đoạn văn ngắn. Đây là đoạn ông diễn tả chất thơ rất khỏe từ đoạn văn kể chuyện mẹ La vượt ngục trong tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng:"... một đoạn thơ ca ngợi ánh sáng và sự sống. Nhưng nào phải ánh bình minh với những ngón tay hồng hay vầng trăng như liềm vàng đĩa bạc! Đây chỉ là một ngọn đèn dầu tù mù như chút linh hồn hấp hối trong cái bệnh xá khủng khiếp của nhà tù Hà Giang. Chao ôi! Cái ngọn đèn nhập nhoè, đùng đục ấy bỗng được vặn sáng lên vào một thời khắc nào đó, của những đêm đông dằng dặc nơi núi rừng, thì có khác nào ánh hào quang lung linh nơi toà sen bão tháp đối với những người tù khổ sai đang tưởng mình bị vùi sâu dưới đáy cùng của âm ti địa ngục! Cái ánh sáng ấy lọc qua sương đêm buốt lạnh, lọt vào khe cửa nhà giam, đã thức tỉnh mẹ La từ cõi chết, làm sống lại trong tâm hồn người tù khổ sai này những kỷ niệm đầy chất thơ của tình mẹ con, tình chồng vợ, tình quê hương, làng xóm và đã làm bùng cháy trong trái tim người đàn bà vô cùng oan khổ này ngọn lửa căm thù mãnh liệt quyết chống lại số mệnh, chống lại bóng tối đầy tử khí của tiếng kẻng tù, trong nhạc điệu hoang dại của gió rừng thác núi hoà với tiếng rên rỉ của tù nhân và tiếng xích xiềng loảng xoảng". Rõ ràng viết được như thế không phải chỉ nhờ những kiến thức lí luận, phê bình uyên bác mà trước hết phải có năng khiếu của một nhà văn, một sáng tạo "ngang ngửa" với Nguyên Hồng.
So sánh là một thủ pháp luôn được Nguyễn Đăng Mạnh vận dụng một cách đắc địa, sáng tạo để tạo nên chất văn cho ngòi bút. Nhiều bài viết của ông vấn đề đang bàn luận được sáng tỏ và sâu sắc nhờ so sánh. Chẳng hạn khi ông so sánh để thấy những khám phá, phát hiện khác nhau về nỗi khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám giữa Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao."Khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan ra đời, tôi chắc ít ai nghĩ rằng thân phận người nông dân dưới ách đế quốc phong kiến lại có thể có một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng, đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị huỷ loại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa.. nhưng chị còn được gọi là người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình đi để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại".
Trong rất nhiều trường hợp Nguyễn Đăng Mạnh thường kết luận bằng một câu hỏi, khêu gợi sự suy nghĩ cho độc giả: "Quang Dũng bây giờ anh đang ở đâu? Hồn thi nhân đang lang thang nơi đâu? Hẳn anh đang du ngoạn thảnh thơi giữa trời mây non nước xứ Đoài yêu dấu của anh. Bởi vì xưa kia anh từng ao ước như thế: Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn/ Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng/ Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc/ Sáo diều khuya khuắt thổi đêm trăng..."
Đọc văn phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh, người đọc vừa thích thú với những ý tưởng mới, những khám phá phát hiện tinh tế, sâu sắc; lại vừa được thưởng thức giọng điệu rất riêng do ông tạo ra. Giọng điệu ấy có nhiều cung bậc khác nhau, khi thì buồn rầu, xúc động; khi thì trầm lắng, xót xa; khi trang trọng, đĩnh đạc; lúc lại sôi nổi, khỏe khoắn... Nhưng có lẽ nổi bật hơn cả là giọng mỉa mai bóng gió. Đọc lên cứ như ông đang có ý định "cà khịa" với ai đó, có khi với chính mình. Chẳng hạn khi ông viết về Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân: "Thử nghĩ mà xem, con người không biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là con người không? Cái gì cũng "vô úy", cũng tỏ thái độ sắt thép, nghĩa là không biết mềm lòng trước bất cứ một cái gì, đấy là loại quỷ sứ chứ đâu phải là người! Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng, muốn nên người, phải biết kính sợ ba điều này: Cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên lương). Vậy kẻ nào không biết sợ cái gì hết, đó là loài quỷ sứ. Loại người này, thực ra rất hiếm hoi, hay nói đúng hơn, không thể có được. Nhưng loại người sau đây thì chắc không ít: sợ rất nhiều thứ, nhất là quyền thế và đồng tiền, nhưng đối với cái tài, cái đẹp, cái thiên lương thì lại không biết sợ, thậm chí sẵn sàng lăng mạ, giầy xéo. Đấy là hạng người hèn hạ nhất, thô bỉ nhất, đồi bại nhất".
4. Chìa khóa mở tâm hồn nhà văn
Trước khi quen nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh, tôi từng nghe câu chuyện như một giai thoại trong giáo giới. Có lần, một số anh chị lớp cao học sư phạm kéo đến hỏi thầy kinh nghiệm làm thế nào để dạy văn cho hay? Ông trả lời: tốt nhất là không nên học môn phương pháp giảng dạy văn (Giáo học pháp). Tất cả đều ngơ ngác, rồi tất cả cùng bật cười.Tất nhiên tôi hiểu đó chỉ là"một chuyện đùa nho nhỏ”. Ấy thế mà sau này, có người vẫn nói với tôi một cách nghiêm túc:"không, ông ấy nói thật đấy". Tôi đã nhắc lại chuyện này trong một đêm khó ngủ bên bờ biển Qui Nhơn. Ông cười và bảo: "Mình có nói thế thật, nhưng chỉ là đùa cho vui. Cánh sư phạm nhiều khi "nghiêm túc" và "khắt khe" quá. Lẽ ra chỉ thế, bỗng nhiên ông lại thêm: “Nhưng công bằng mà nói, trong thực tế cũng đúng là có phương pháp dạy văn, học văn, phương pháp nghiên cứu, phê bình văn đáng vất đi thật. Chứ còn phương pháp đích thực, đúng đắn thì đến việc bắt dế của trẻ con cũng cần có phương pháp, huống chi là việc học văn, dạy văn, nghiên cứu phê bình văn. Đấy, cậu xem, tớ đã viết cuốn "Mấy vấn đề phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ chủ tịch Hồ Chí Minh", hàng loạt bài hướng dẫn phân tích các tác phẩm trong nhà trường và cả cuốn "Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn" nữa. Đấy chẳng phải phương pháp là gì?
Lần giở cuốn "Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn", tôi hiểu, đây là sự gửi gắm những đúc kết của suốt mấy chục năm qua để mở cánh cửa đi vào thế giới tâm hồn vô cùng phong phú, phức tạp, đầy bí ẩn và thú vị của mỗi nhà văn.
Cuốn sách tập trung trả lời câu hỏi: Làm thế nào để nghiên cứu nhà văn một cách chính xác? Có nghĩa là, tác giả muốn vạch ra một "Con đường ...", đề xuất một phương pháp nghiên cứu nhà văn. Chính vì thế có thể gọi cuốn sách này bằng một cái tên khác "Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học".
Toàn bộ lí thuyết nghiên cứu tác giả văn học của Nguyễn Đăng Mạnh đều nhằm vào cái đích: làm thế nào để chỉ ra được chính xác tư tưởng nghệ thuật của một nhà văn. Tư tưởng nghệ thuật (idée poétique) là cái đinh để ông treo toàn bộ “chiếc áo khoác” trên đó. Mọi sự hình thành, phát triển hệ thống lí thuyết, phương pháp nghiên cứu tác giả văn học đều bắt đầu từ điểm chốt ấy. Ba chương sách của phần lí thuyết được triển khai một cách chặt chẽ, có hệ thống, xung quanh khái niệm cơ bản này. Từ việc xác định Thế nào là tư tưởng nghệ thuật đến Những căn cứ để tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật. Từ việc phân tích ý nghĩa tư tưởng rút ra từ hệ thống hình tượng "ám ảnh" trong thế giới nghệ thuật của nhà văn đến việc rút ra Những qui luật nội tại của thế giới nghệ thuật và việc đưa ra Giả thuyết về nguồn gốc tư tưởng nghệ thuật của nhà văn...
Giải quyết những vấn đề khái quát, phức tạp và then chốt ở trên, tác giả không rơi vào tình trạng áp đặt một cách cứng nhắc, máy móc, hay cực đoan, siêu hình. Ông dành hẳn chương III để xem xét Sự vận động, biến đổi, phát triển của tư tưởng nghệ thuật và qúa trình sáng tác của nhà văn. Ông cũng chỉ ra những Tác động của hoàn cảnh khách quan tới sự vận động của tư tưởng nghệ thuật và cho rằng Con đường nghệ thuật hay là quá trình tự tìm mình của người cầm bút. Ta là ai? và Ta vì ai?
Xuất phát từ quan niệm "Phương pháp là lí thuyết về đối tượng nghiên cứu", bản lĩnh của người nghiên cứu văn học là luôn luôn xác định đúng và bám sát đối tượng văn chương mà vận dụng hoặc đề xuất lí thuyết nghiên cứu văn học của mình. Có thể nói, toàn bộ chuyên luận "Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn" đã được triển khai theo tinh thần đó […] .
Cuốn sách "Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn" của Nguyễn Đăng Mạnh thực sự là đóng góp ý nghĩa, chuẩn hóa việc nghiên cứu lí luận, phê bình văn học nước nhà. Nguyễn Đăng Mạnh công bố công trình "Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn" như là một lí thuyết nghiên cứu tác giả văn học của riêng mình. Lí thuyết ấy cho rằng: Nghiên cứu tác giả văn học là nghiên cứu một đối tượng đặc biệt. Vì thế người nghiên cứu vừa phải có một phương pháp luận khoa học, đồng thời và "bao giờ cũng phải vượt qua những khâu "phi phương pháp luận". Đó là năng lực cảm thụ thẩm mĩ và những phán đoán trực giác. Không có năng lực ấy, theo ông "mọi phương pháp luận tốt nhất cũng trở thành vô ích".
Trong cuộc đời, thông thường người ta chỉ công bố sản phẩm, còn cách làm ra sản phẩm thì luôn được coi là "bí quyết" (nhất là những lao động đặc biệt). Rượu làng Vân ai thích uống có ngay, nhưng cách nấu thứ rượu ấy thì mấy ai được biết. Thưởng thức một bài phê bình văn học hay cũng như được uống rượu làng Vân vậy. Nguyễn Đăng Mạnh không những đã cho bạn đọc xa, gần uống thứ rượu ngon này mà ông còn chỉ cho họ cả cách nấu rượu nữa. Ngẫm trong những người cùng giới, đã đành là không phải ai cũng có, nhưng ngay cả người có"bí quyết" riêng, mấy ai được hào phóng như ông. Âu đó cũng là cái Tâm của người nghiên cứu vậy.
5. Thích trẻ trung, luôn sợ sự tẻ nhạt
Với hơn 60 năm gắn bó với nghề dạy học, việc ông tham gia viết sách giáo khoa môn Văn là chuyện bình thường. Nhiều người đều biết trong chương trình và sách giáo khoa Văn học giai đoạn cải cách giáo dục (1980-1992) ông làm chủ biên sách văn học 11 và 12. Với quan niệm “giờ văn phải thực sự là giờ văn”, ông là người có công đưa nhiều tác phẩm theo đúng nghĩa văn chương hình tượng vào sách giáo khoa Văn học. Các thế hệ giáo viên và học sinh trong nhà trường phổ thông cũng như đại học khoảng ba - bốn mươi năm nay không thể không biết đến cái tên Nguyễn Đăng Mạnh. Nhiều người chịu ảnh hưởng rất lớn ở ông. Với uy tín và kinh nghiệm chuyên môn cao như thế, việc mời ông tham gia viết sách Ngữ văn THPT trong lần đổi mới (năm 2000) là chuyện bình thường. Có lạ chăng là việc ông từ chối, không tham gia viết lách gì nữa.
Đó là vào năm 2002 khi Bộ GD&ĐT bắt đầu triển khai biên soạn lại SGK Ngữ văn THPT, ban đầu chủ trương chỉ có một bộ, trong danh sách tác giả, người ta nhắc ngay đến Nguyễn Đăng Mạnh. Khi mời, ai cũng nghĩ là ông sẽ tham gia, nhưng không ngờ ông từ chối một cách quyết liệt. Cả đình ông từ chối, nhất là vợ ông. Lí do bà đưa ra để từ chối thay ông là: đã về hưu, già rồi, mệt mỏi, chẳng được gì, chỉ tổ cho thiên hạ họ đem ra phê phán, thậm chí còn xuyên tạc, bôi nhọ trên báo chí... Là người được giao đến để thuyết phục ông tham gia, tôi thật sự lúng túng. Tôi cứ nghĩ thầy không nhận lời thì rất thiệt cho giáo viên và học sinh. Nhưng thuyết phục bằng cách nào đây? Bảo là viết SGK để cho sang thì với ông sang cái nỗi gì! Mà ông cũng đã viết SGK nhiều rồi. Bảo là để có tiền, thì tiền có đáng là bao! (lúc đó NXB đang trả cho các tác giả 300 ngàn đồng/1tiết, lớp 10 ông chỉ viết bài Khái quát văn học Việt Nam (2 tiết), vị chi ông được 600 ngàn đồng). Bảo để có tên tuổi, thì tên tuổi ông đã nổi trước đó rồi! Mà nổi không phải vì mấy cuốn SGK văn... Nghĩ mãi, tôi bèn nói nhỏ với ông: lần này có nhiều anh em trẻ viết sách giáo khoa, thầy tham gia vừa giúp đỡ họ, vừa đi đây đi đó cho thay đổi không khí (chẳng là NXB thường tổ chức các trại viết sách ở một số địa phương để các tác giả có thời gian tập trung làm việc). Vừa nghe nói "lớp trẻ" và "đi đây đi đó", ông thay đổi ngay thái độ, dường như xuôi xuôi... Cuối cùng ông đồng ý. Tôi cũng không biết ông thuyết phục vợ bằng cách nào nữa. Chỉ biết là sau đó ông tham gia làm đồng chủ biên bộ sách Ngữ văn THPT (bộ nâng cao) một cách rất nhiệt tình, nghiêm túc.
Mới thấy, ông là người sợ sự tẻ nhạt, nhàm chán, cô đơn; thích thú lang thang, giao du, vui vẻ... Ông thích gần lớp trẻ, hòa đồng với lớp trẻ, thích sự trẻ trung... Thể xác ông có thể già đi vì năm tháng, nhưng tâm hồn và văn chương ông cho đến tuổi tám mươi này, tôi thấy vẫn còn rất trẻ.
Nguyễn Đăng Mạnh được phong danh hiệu Giáo sư và Nhà giáo nhân dân khá sớm. Nhưng về chức vụ, ông chẳng được giữ chức gì đáng chức cả."Chức to nhất trong đời mình là tổ trưởng.", có lần ông cười và nói với tôi như thế.
6. Nỗi buồn của thầy Mạnh
Sau những ngày "sóng gió" bởi cuốn Hồi ký… trên mạng; thầy trở nên trầm lắng hơn.Cuốn sách đã mang lại cho thầy những người bạn mới, nhưng cũng làm rơi rụng khá nhiều người quen cũ; có học trò chui từ tay áo ông ra, giờ quay ngoắt như là không quen biết, như là không muốn nhận ông – người đã một thời dạy dỗ mình. Có người bảo ông buồn vì chuyện này. Nhưng theo tôi thì không phải.
Trong tâm lý Á Đông, khinh trọng đối với mỗi con người là cả một vấn đề. Rất ít người vượt qua được mặc cảm khinh trọng, nhất là từ những học trò của mình. Một ông thầy mất ngủ cả đêm, trằn trọc, băn khoăn… chỉ vì lúc chiều có cậu học trò đã không chào mình. Có người rất uất vì gọi điện cho một ai đó ít tuổi hơn nhưng không được trả lời, cũng không nhắn nhe gì lại cả. Bạn tôi nổi sung lên với một đồng nghiệp chỉ vì anh gửi tài liệu qua email, người kia nhận được nhưng không hề hồi âm cho người đã gửi.
Tuổi già, về hưu… lại càng dễ có cái mặc cảm bị bỏ quên, bỏ rơi, không còn tác dụng gì, vô tích sự, … rất dễ tủi thân, dễ nổi cáu và dễ quy kết hành vi người khác là thiếu lễ độ, thiếu tôn trọng mình, nhất là khi mình lại là thầy dạy nó…. Với thầy Mạnh, tôi thấy hình như ông vượt qua được cái mặc cảm khinh trọng ấy. Ông và Hoàng Ngọc Hiến, hai người thầy tôi biết trong số ít bậc thầy không có mặc cảm này. Ðây không phải là thái độ của AQ "nó khinh mình như khinh bố nó" mà là xuất phát từ một bản lĩnh tự tin; tự tín với chính gía trị vốn có của mình. Vâng, tôi nghĩ phải là người hiểu mình, hiểu chân giá trị của chính mình và thấm thía, trải nghiệm nhiều vinh nhục ở đời… thì mới có thái độ sống vượt mặc cảm khinh trọng; mới luôn bình thản, coi như không có chuyện gì xảy ra, kể cả khi đã xảy ra những chuyện tày trời….
Khi đã về già, người ta rất dễ buồn vì chuyện sự nghiệp, nhất là những người đã có chút tiếng tăm. Nhìn đi nhìn lại chẳng có gì để lại; chẳng ai nhớ, ai đọc những gì mình viết, kể cả những người viết rất nhiều. Nguyễn Đăng Mạnh có buồn vì chuyện này không? Chắc chắn là không. Trong số những nhà phê bình văn học sau 1945, ông sẽ là một trong số ít người được bạn đọc nhớ và họ còn đọc lại ông nhiều lần nữa. Rất ít cây bút phê bình vừa có chất văn, vừa có ý tưởng mới; dù ngắn hay dài đều có nghĩa lý, đều là “văn sư tử”; đều tạo được ấn tượng sâu đậm, sáng sủa và thật giàu màu sắc biểu cảm… như văn phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh. Tôi thỉnh thoảng vẫn dạy học sinh giỏi làm văn, vẫn thường chấm văn cho học trò cuối cấp Trung học phổ thông thì mới thấy ảnh hưởng của văn Nguyễn Đăng Mạnh thế nào. Không chỉ số lượng trích dẫn có nguồn gốc mà còn rất nhiều ý tưởng, chữ nghĩa của ông được các em học sinh cứ thản nhiên dùng như là văn của mình vậy. Mà chẳng cứ gì học sinh Trung học, nhiều luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ, nhiều bài phê bình về Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng… đã và đang xuất hiện trong nhà trường, trên báo chí… vẫn phảng phất ý tứ và văn phong ông Mạnh đấy thôi. Có người viết cả cuốn sách về Nam Cao, nhưng không để lại được một mẩu ấn tượng gì trong lòng bạn đọc, ngoài cái cảm giác hình như những ý này thầy Mạnh đã nói rồi. Ông đã giảng hoặc viết đâu đó trong một bài rất ngắn.Thế thì làm gì ông phải buồn?
Khi về già, người ta thường hay buồn về chuyện con cái, cháu chắt. Đấy mới là chuyện rất đáng quan tâm với tuổi già. Tôi thường vẫn nghĩ, hạnh phúc gia đình trước hết được đo ở sự trưởng thành của thế hệ con cháu. Ối ông làm to mà con cái hư hỏng; rất nhiều bà mẹ lắm tiền mà con vô học, cháu hỗn láo, thậm chí vào tù… Ðó là nỗi buồn về nhân tính. Một phương diện khác, lại là nỗi đau nhân hình. Chẳng may trời bắt tội, bố mẹ phải mang nỗi đau buồn vì những đứa con tật nguyền, không lành lặn về thể xác…Mà cả hai trường hợp đều không bỏ được. Thầy Mạnh có buồn vì việc này không ? Cũng không! Ông bà có hai người con: nếp có, tẻ có. Cả hai đều đã trưởng thành, có gia đình con cái bình thường. Con cháu đều ngoan hiền, hiếu thảo; thương yêu và kính trọng bố mẹ, ông bà hết mực. Có nhà riêng, nhưng gần đây ông bà ăn ở cứ Nam Bắc chia đôi: khi vào Nam với con trai, khi ra Bắc với con gái…tình nghĩa vẹn toàn. Thế thì có gì mà phải buồn?
Những tưởng thầy Mạnh chẳng có gì phải buồn, nhưng nghĩ ra thấy ông vẫn có nỗi buồn, thậm chí nỗi buồn không nhỏ. Cũng như Xuân Diệu, ông vốn là người thích "giao cảm", khát khao được giao cảm, thích giao du, xê dịch sông nước; thích tiếp xúc, trò chuyện "nhậu nhẹt, tán phét" như ông thường nói. Và vì thế ông ham thưởng thức, nhấm nháp cái đẹp, cái hay bằng tất cả sự tinh nhậy của các giác quan… Thế nhưng mấy năm gần đây, tai ông nặng dần, chân bước chậm hơn, răng bắt đầu rụng…Thành thử các cuộc chuyện trò, nhất là ở chốn đông người, ông nghe không được bao nhiêu. Mà phải chỗ đông mới vui; mới lắm thông tin, mới nhiều chuyện lạ; nhưng khốn nỗi càng đông, càng nhiều chuyện, càng vui nhộn, ông càng ít nghe được bấy nhiêu. Ông rất thích thưởng thức ẩm thực, những món ngon, của lạ… thế nhưng bây giờ răng đã thế, làm sao ngon cho được ? Say mê những danh lam thắng cảnh, thích trèo lên tận Cột cờ Lũng Cú; sục chân vào bãi bùn tận đất mũi Cà Mau, sờ tận tay viên gạch rêu phong của những tháp Chàm cổ kính…nhưng bây giờ chân đã yếu rồi, lại mấy cái đinh chưa rút sau lần trượt ngã phải bó bột đóng đinh khi du giảng ở vùng đất phương Nam…thế nên đi xa, đi và đến những nơi theo đúng nghĩa ông thích, giờ hầu như chỉ còn là mơ ước.
7. Lời cuối tiễn thầy
Thời đi học, tôi không được học thầy. Tôi biết tên tuổi ông qua những trang phê bình, nghiên cứu văn học. Sau này quen ông, được trao đổi và trò chuyện cùng ông... tôi mới thấy mình may mắn. Cứ nghĩ, làm học trò Nguyễn Đăng Mạnh cũng là may rồi. Ấy thế mà lắm khi ông còn coi kẻ hậu sinh như tôi là bạn vong niên (thầy hơn tôi 27 tuổi). Nhiều lần cùng ông đi đến chỗ này, chỗ khác, gặp người này, người nọ, thầy cứ giới thiệu:"Đây là ông bạn tôi". Ban đầu tôi rất ngượng, nhưng ngay sau đó lại hoàn toàn bị cuốn hút bởi tính tự nhiên, chân thực và tươi trẻ trong cách ứng xử của ông.
Bỗng nhớ có lần ông tâm sự với tôi về việc đến gặp tác giả "Vang bóng một thời" để làm tuyển tập:"Thường chỉ khi nào có việc mình mới đến Nguyễn Tuân và đến là để làm việc. Mình bạn bè thì chẳng phải, lại chỉ đáng hàng con cháu ông ấy, không khéo bị ông ấy mắng cho thì khốn".Tôi cũng có tâm trạng ấy trong những lần đầu gặp thầy. Đó là vào năm 1986 khi ông vào giảng cho một lớp tại chức ở Thanh Hóa lúc tôi còn là giáo viên dạy chuyên văn trường PTTH Lam Sơn. Vốn mê văn ông từ lâu, nay gặp người thật ngoài đời, tôi thấy vừa thân thiết, gần gũi, vừa kính cẩn, xa xôi. Tôi chỉ dám hỏi ông những gì liên quan đến công việc dạy - học văn.
Thấm thoát đã ba chục năm bên ông. Dù chưa hề được nghe ông giảng một bài trên lớp, nhưng tôi vẫn nghĩ ông là người đã dạy cho tôi nhiều nhất, ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất, từ cuộc sống đến văn chương. Nhiều lúc thấy mình chưa làm được gì, văn chương còn cạn hẹp; viết lách còn cẩu thả... cứ như có lỗi với thầy.
Với thời gian, tôi hiểu ông trọn vẹn hơn: một Nguyễn Đăng Mạnh văn và đời. Có thể, văn chương và tư tưởng học thuật của ông, tôi chưa lĩnh hội hết, nhưng con người, nhân cách, tính khí, quan niệm sống, quan niệm về cái đẹp, cái đáng tôn thờ, cái nên khinh bỉ… tôi đã thấm thía hơn nhiều.
Thầy ơi! Mai là ngày đưa tiễn thầy về nơi an nghỉ cuối cùng. Em không có đại bác để bắn khi tiễn đưa thầy, chỉ có "loạt" bài này. Dù câu chữ còn vụng dại, thô sơ, nhưng đấy là cả tấm lòng thơm thảo. Cả đời thầy cặm cụi nghiên cứu viết chân dung và phong cách người khác. Nay em ghi lại đôi điều như những nét phác thảo chân dung và phong cách của thầy: một người thầy đáng kính, một nhà phê bình văn học tài hoa, và cũng là một con người của đời thường như trăm ngàn con người mà ta vẫn gặp.
Từ nay không còn được hầu chuyện thầy nữa rồi; mong thầy ra đi thanh thản, mát lành. Thể xác thầy mất đi, nhưng chân dung và phong cách thầy vẫn hiển hiện trên mỗi trang văn.
Hà Nội, ngày cuối năm (12-02-2018)
PGS. TS. Đỗ Ngọc Thống
Tổng Chủ biên Chương trình Ngữ văn mớ
==================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét