HOA ĐÀO NĂM NGOÁI
Xin được phép tặng bạn H. ở Stockton như lời cảm ơn.
(Thế Phong)
Chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã cho phép tải đăng tác phẩm này
để tôi được sống lại những ngày ở SàiGòn vơí những khuôn mặt thân quen của các anh T :
N.M.C - T.X.S - T.B.T - D.H.D ... và nhiều người anh khác ở TTHL.Cát Lở Vũng Tầu.
Từ Vũ
Mở.
1.
C hín giờ tối, tôi vẫn băn khoăn, do dự nhiều; sửa soạn đi làm. Với tôi, tất nhiên là chín giờ tối. “Từ mười giờ đêm đến hai giờ sáng. Bốn tiếng đồng hồ, có gì là lâu đâu!” Tôi không quên N. cai gà nhắc tôi câu nói đó. Chiều hôm qua, khi chị đến thăm tôi vì biết rằng tôi đã sinh cháu nhỏ ngoài ba tháng. Lại nữa, chị N. kể chuyện rằng trong những kẻ đến mua vui ở những tiệm như Tự Do, Moulin Rouge, Olympia, đều là khách phong lưu mã thượng; không ai là không nhắc đến tôi. Một vì sao sáng của dĩ vãng, nói theo kiểu ở trong nghề, nay đã hoàn lương.
Tôi lập gia đình rồi thì không đi làm nữa. Vẫn chị N. kể chuyện về con Nguyệt: “Bây giờ chắc Thủy không biết nó, nhưng nó biết tiếng Thủy. Nó là một gà được khách hào hoa mời bàn nhiều nhất. Nó hỏi chị có phải trước kia chị Thủy là hoa khôi của những vũ trường không? Chị gật đầu.“ Trước khi ra về, N. còn tặng tôi cái phong bì mà trong đó tôi biết chắc rằng chị tặng gì và thấu hiểu rõ hoàn cảnh của chúng tôi bây giờ. Tôi tiễn chị ra ngoài đầu ngõ; trước khi lên tắc xi, tiếng chào hỏi thiết tha vọng lại gợi cho tôi nỗi buồn đau. Đã mười năm, tôi sống với nghề này, thử thách nhiều đêm mặn nồng tình ái, thấu rõ tâm lý đàn ông của nhiều lứa tuổi. Nói rõ hơn như thuộc tâm tình con cháu trong nhà; chúng muốn và thích những gì, thì tôi đã đi guốc trong bụng từng một trong những đứa chúng nó. Dĩ vãng của tôi như mỗi người bạn thân thiết bủa vây. Như Dalat của những ngày tôi hai mươi tuổi. Quán cà phê Huyền và những đứa con trai. Để rồi viên Thị trưởng đã ra lệnh trục xuất chúng tôi. Những tấm ảnh vào thời son trẻ của tôi mà vài tiệm chụp hình còn trưng bày. Theo như một anh bạn nhà văn của vợ chồng tôi kể lại: “Nào họ có bỏ đi vì vẫn nhớ một ngôi sao sáng vụt đến vụt đi, rồi đến tận phương trời xa”… Hình hài tôi vẫn còn như hiện diện trong thành phố mù sương. Cả những khung cảnh gần gũi như Suối Vàng, thác Pongour, Gougah, Rừng Thông. Mớ tóc dài như nước của Thủy. Vẻ ngây thơ xưa kia, bây giờ thay vào đấy; là chán và buồn về cuộc sống. Bạn bè chồng tôi thật nhiều và đủ loại. T1 là luật sư, T2 là giáo sư đại học, T3 là văn sĩ, T4 là thẩm phán, T5 là kỹ sư và T6. Còn tôi là T ngoại hạng. Bảy, tám chúng tôi họp thành một nhóm, tiếng dội của cuộc đời và cũng là âm thanh vang vọng của cuộc đời. Nhiều vui và nhiều ray rứt. Từ ba mươi, nhìn lại thấy cuộc đời không quá vui và không quá buồn. Chồng tôi là T6. Bây giờ tôi không muốn bỏ dĩ vãng. Tôi sẽ khó quên được những ngày ấy, trước khi lấy nhau. Thời kỳ 63 chưa đảo chánh, chồng tôi bị tù đày. Bao nhiêu là hình ảnh, bao nhiêu là nước mắt và tiếng cười chát chúa. Xa lộ vào những buổi chiều hàng ngày, hàng tuần. Với chiếc xe Hillman (loại Minx) của T4. Với cách tiêu tiền không biết tiếc tay, cũng vẫn của T4. Nói thao thao bất tuyệt và đầy lý sự của T1. Với cái nghèo, nhưng bất cần đời của T3, văn sĩ. Với nét lầm lì, nhiều suy tư của T5, kỹ sư. Còn là em của giáo sư đại học T2. Và dáng hào hoa, trí thức của T6, chồng tôi bây giờ; lại hay chơi trội. Anh ta còn là giáo sư Anh văn, dạy ở các trường tư thục.
Những T. kia đang xiết chặt lấy tôi, thì đứa cháu lên gác gọi, hỏi xem dì nó đã sửa soạn xong chưa? Mẹ nó giục tôi đi làm; vì chị N. tới đón. Bao vây trong cảnh túng quẫn; vì từ lâu, chồng tôi không còn làm gì, sau ngày ở tù ra. Vì trước đó, anh tham gia vào phong trào vận động sinh viên, trí thức chống chính phủ Diệm. Anh ôm lấy tì vết cuộc đời lao tù; nên đau và ốm, thấm đòn, đành nằm khàn. Chúng tôi sinh ra cãi nhau; một phần vì đồng tiền eo hẹp và tính độc quyền quyết định của anh đối với gia đình. Lại giữa vào thời kỳ sinh nở; bao nhiêu thứ cần phải chi dùng. Đồng tiền thu vào ít, tiêu ra nhiều; anh em bạn không sao giúp đỡ nổi nữa! Tôi còn biết làm gì, để bảo vệ hạnh phúc của chúng tôi bây giờ. Giữa lúc ấy, N. đến với tôi, như một ân nhân và cũng là một người gieo tai họa. Cứu vớt đường sinh kế, nhưng hạnh phúc mỏng manh đi. Tôi định từ chối không đi làm nữa. Cái nghề này tuy kiếm ra tiền dễ thật, nhưng tôi chán nó. Song đến lúc con trai kháu khỉnh của tôi thức giấc; nó khóc, tôi với tay kéo dây đưa võng, rồi lặng đi để ngắm nó. Văng vẳng dội lại từ đâu đây, một lời nói của ai đó; có thể là tôi, chồng tôi; chúng tôi và chúng tôi đành chịu khổ. Nhưng đứa con kia, con chúng tôi, tại sao nó lại bị khổ? Má hồng hồng thơm thơm của nó, đôi môi mọng kia thơm như hương trầm luân mà đầy thánh thiện; nó đã làm gì cho đời hắt hủi, bắt nó chịu số phận hẩm hiu.
Tôi nghĩ vậy nên bấm bụng, đi ra phía bàn gương chải tóc. Tôi vẫn còn đẹp, cái đẹp buồn và trầm xuống; như một nghệ sĩ thẩm định, là căn cứ vào tâm hồn và đào sâu sau lớp da mày phấn sáp. Vóc dáng tôi, ở bề ngoài ư; còn toát ra nhiều vẻ khêu gợi và quyến rũ. Tôi không có vẻ đẹp - tỉa tách từng chi tiết buông rời. Một lần T3 bày tỏ ý kiến của anh về tôi; hình như tôi nhớ mang máng thế.
Tôi xuống gác rồi ra phố cùng với chị N. Những lời an ủi của người bạn tuổi chị, vốn là người miền Bắc; nên tài hoa, lịch lãm, dễ khơi cho tôi niềm xúc động chân tình. Song tôi vẫn buồn nhiều hơn; vì là đêm khởi sự đi làm, qua nhiều năm bỏ. Đêm nay tôi lại phải làm đẹp lòng khách, bằng những câu nói thiết tha mà chắc gì tha thiết, hoặc phải dùng lời vũ phu cảnh cáo những thú tính lợi dụng của một số khách hàng. Một vòng tay ôm sát, một cái thúc bằng khuỷu tay, một cái véo đùi. Tôi thì đã chán ngấy sự giả dối, càng hơn nữa, là khi tiếp xúc với nhóm bạn bè của chồng tôi.
Tôi nhớ đến hôm nào T3 hỏi tôi: “Rồi ra Thủy sẽ trở thành nữ sĩ, vì Thủy chân tình và có tâm hồn”. Từ lâu, tôi không thấy T3 lại nhà chơi, tôi nhắc đến T3, thì chồng tôi lại như ghen bóng ghen gió. Tôi chắc chắn là giữa T3 và T6 có chuyện xích mích chăng?
Thấy tôi ít nói, chị N. khuyên nhủ:
“Rồi nó lại quen đi Thủy ạ. Ai mà chẳng vậy. Em không biết chứ, trước ngày cách mạng, chị có ngờ đâu rằng lại còn được sống lại với cái nghề này. Mà em còn nhớ con C. chứ? Dạo này nó còn chán chường hơn em nữa cơ?”
Tôi nhớ đến C. Một dạo, nó tưởng chừng đã xây dựng hạnh phúc với một chàng văn sĩ mặt ngựa, thiếu xương sống; lại sống kiểu hiện sinh nửa vời. Để cho vợ đi làm, còn mình ở nhà? Như là anh ta sống đời sống ký sinh trùng. Nhưng ba bảy hăm mốt ngày, C. phải bỏ nó. Cái quý nhất của nó, như C. kể; nó chỉ dùng đi tiểu thôi, vì đã bất lực rồi! Mà nó lại còn quá sức ghen. Ăn nhờ vợ thì thôi, lại còn đòi ghen nữa kia à? Của quý đã không còn xài được mà còn giữ vợ. Nếu còn ghen thì đừng để vợ đi làm. Chị N. kể lại qua loa như vậy. “Con C. chán chường. Con C. đã học đòi hiện sinh của thằng chồng, cởi truồng giữa đám bạn bè chồng, uống rượu và đánh xì phé. Cũng chẳng đem lại sinh khí mới nào cho cuộc sống. Nó chán cả văn sĩ lẫn ông già. Bây giờ nó đi tìm nhân tình là thanh niên tóc tém, đời gọi là cao bồi, vì bọn này còn nhiều sinh khí nhiệt tình. Của quý còn dùng được nhiều việc, chứ không chỉ riêng dùng đi tiểu.” Nghe xong truyện, tôi dửng dưng. Và riêng tôi, tôi định giấu chị N. về chuyện gia đình tôi. Giữa tôi và T6. Nhưng chắc rằng chị N. cũng biết rõ một phần nào rồi. Như vậy, tại sao tôi lại còn biện bạch, chẳng hóa vậy là trơ trẽn quá sao? Nên giữ im lặng mà nghe là đắc sách nhất.
Tới tiệm làm, tôi ngồi vào bàn. Nhưng tôi vẫn thấy mình như là khách, chứ không phải vũ nữ. Vẫn còn gặp lại một số quen thuộc, nhưng vô cùng ít ỏi. Thêm một số khách mới, phần đông lạ mặt. Và bọn con nít mới lớn lên, là con nhà giàu; học đòi ăn chơi và tìm cảm giác lạ. Một bạn trẻ vào loại ấy đi qua nhìn thấy tôi, gọi giật lại:
“Thủy, em sang ngồi bàn với anh đi.”
Trong lòng tôi, thầm nghĩ thôi, nó vào trạc tuổi thằng X, phăng của tôi hay lại nhà, trước khi tôi lấy T6. Nó hơi hỗn đấy nhé, nhưng nó là khách; còn tôi là vũ nữ, nên ai lại tỏ phản ứng làm gì. Tôi lại càng nhớ đến T3, thời gian gần anh; tôi bất chấp cuộc đời xã hội, tôi sống cho cuộc đời của tôi, thích nói thì nói, thích chán nói chán; không úp mở và che giấu sự bộc lộ tình cảm của mình một cách khác đi. Hẳn rằng bây giờ trái lại với đời sống có lối sống úp mở của tôi hôm nay. Thằng con nít mới lớn, làm sao nó biết tôi? Nghĩ là nghĩ vậy thôi. Tôi vẫn phải ra sàn nhảy với nó. Nó hành tôi, kể ra cũng ghê gớm; đáng đồng tiền bát gạo mà cha ông nó kiếm, rồi dành cho nó phung phá. Luật thừa trừ có nghĩa từ đấy.
“Anh nghe tiếng em từ ngày anh lớn.” Nó bảo tôi. “Bây giờ được hân hạnh nhảy cùng em một bài blues. Em nhảy tuyệt, nhưng em sao ít nói thế?”
Tôi trả lời bằng tiếng cười.
Tiếng cười của tôi, theo như T3, thì khó mà biết tôi nghĩ gì và tôi sao lại cười? Có một đêm tôi còn nhớ rõ lắm. Đêm ấy hạt mưa nho nhỏ đủ làm ướt mặt đường. T4 lái xe, T1 ngồi ngoài, T3 ngồi giữa, cùng một băng đầu. Cả ba tên đi tìm tôi và T6. Khi đi qua rạp xi nê gần nhà tôi bây giờ, họ thoáng nhìn thấy tôi và T6 đang ngồi ở quán phở. Chẳng ngần ngại gì, họ vòng xe lại, đậu bên lề. Tôi chạy ra đón họ, còn T6 ngồi trong hiệu. Chưa bao giờ chúng tôi vui như vậy. Ngồi chung một bàn, chúng tôi nô đùa như sắp sửa coi hiệu ăn là nhà mình vậy. T4, người mảnh khảnh, khuôn mặt rắn rỏi, quắc thước; hẳn lúc xử án mà anh chàng nhăn mặt, nhiều tội nhân sợ khiếp đảm. Chỉ riêng với tôi thôi, anh chàng hơi thấp và lại rất vui; nói đúng hơn là dại gái, theo kiểu nhà tu xuất trở về đời. Chàng ta là một trong hai tên say mê tôi nhất vào thời gian đó. Sự chạy đua giữa T4 và T6; thì T6 trông thấy thua ra mặt. Tôi biết điều này, nếu trong một bọn đàn ông; hễ có thêm một người đàn bà mà một kẻ trong đó si mê người đàn bà kia là cả bọn bắt đầu nhảy vào vòng chiến. T1 phụ họa, nhưng phụ họa cho T4; song T3 đứng giữa không về phe T4, dầu thân. Với anh chàng này, tôi phục anh ta hơn hết thảy. Có lẽ chàng chưa mê tôi và chẳng có cái gì giống mọi kẻ trong bọn. Hoặc là hay hoặc là dở thì chưa biết. Có lần T4 kể chuyện lại, vì T3 không ưa đi chơi chung với chúng tôi, T4 nói sỗ sàng: “Tôi vừa bảo T3 như thế này; nếu anh không cùng đi chơi với bọn này, anh sẽ không thành người được!”
Nói xong T4 cười. Và quay sang tôi, như để dẫn giải: “Thủy biết sao không? T4 tiếp, anh ấy tức quá mà chẳng làm gì được. Anh ta bèn dẫn tôi đi qua một con đường có cái cầu khỉ; từ Nguyễn Thông sang Trương Minh Giảng, qua nẻo trại di cư Bùi Phát. Còn ai ở đây mà không biết cái cầu ấy, dưới kia là rác rưởi, phân lềnh bềnh trôi, trên là hai cây tre chông chênh. Đi không khéo là được dẫn xuống cầu lịch sử đó. Rồi anh ấy chỉ xuống dòng nước vàng vàng kia, trả đũa tôi: nếu tôi không dẫn anh qua cầu này, làm sao mà anh thành người được, chứ chưa nói đến làm chánh án xử những việc mà chỉ sai tóc tơ là đầu người ta mất thăng bằng.”
T4 cười ròn vang, sau câu nói kia. Rồi tôi kể lại cho T3 nghe về T4 đã nói như vậy, anh nhận là đúng. Anh chàng này đã có bản lĩnh, vì trước mặt tôi mà anh dám nhận với bạn một câu nói khá tàn nhẫn, cay đắng; mà không chối đi, để cho người đẹp thấy rằng mình có giá trị, không phải chỉ giá trị khi nhận điều nào tốt đẹp và chối bỏ cái không đẹp.
Trở lại đêm gặp gỡ trước quán phở kia, chúng tôi đặt một nguyên tắc; chấp nhận những ai nói hay và phạt những ai nói chuyện vô duyên, nhạt nhẽo, chọc quê. Người nói hay thưởng một đồng. Thủ quỹ là tôi. T4 bị phạt, T1 ít hơn, T3 được thưởng. Giữa lúc ấy, T3 ngoắc hai người bạn quen đi qua đấy. Hai người ngồi vào chỗ, rồi giới thiệu lẫn nhau. Người dongcao, gầy, là họa sĩ Tuýt. Người nói giọng miền Nam, tóc dài là thi sĩ Tô Tô. Có mái tóc lòa xòa như tu dòng Hòa Hảo. Tôi rất ghét những tên đàn ông đa tình, lộ liễu; cứ trông thấy gái đẹp là mê cuống lên. Như anh chàng Tuýt chẳng hạn. Gặp tôi chàng ta mở lời ngay: “Em đẹp lắm, hôm nào anh phải vẽ cho em Thủy một bức họa mới được.”:
“Vẽ như thế nào mới được chứ?”, tôi hỏi liền.
Rồi tôi cười, tiếng cười của tôi lúc ấy mang thật nhiều ý nghĩa. Mà tôi thấy T3 tủm tỉm, tôi biết ngay là anh đã nhận được nụ cười mang ý nghĩa nào rồi. Rồi anh cười toang lên như nắc nẻ theo sau. Làm cho Tuýt luống cuống. Tuýt lại đề nghị tiếp: “Vẽ một bức họa chứ vẽ thế nào nữa. Em tưởng rằng được một họa sĩ cỡ anh đề nghị vẽ là chuyện dễ sao?”
T3 thấy có sự gay gắt ở phía Tuýt, họa sĩ bị chạm tự ái rồi. T3 tiếp: “Ngôn ngữ của cậu chưa hợp với bọn này. Thôi để ngày khác lại chơi, dượt lại ít ngôn ngữ đã.” “Phạt một đồng nữa”, tôi tiếp theo.
Đáng thương cho họa sĩ; chẳng hiểu đầu đuôi gì, chỉ còn cách há hốc miệng nhìn. Thi sĩ Tô Tô ra cái điều ta đây lắm.. Tôi ít đọc thơ văn anh ta, nhưng qua dáng điệu và xử sự, anh ta cũng cừ lắm. Bây giờ Tô Tô lên tiếng: “Này T3, mày có quyển gì viết về ông Quỳnh đó, tao muốn đọc mà kiếm không ra. Đi đến đâu cũng thấy anh em xì xào về cuốn đó. Cho tao xin một cuốn, được không?”
T3 trả lời rằng cuốn kia đã hết. Tôi bèn ra cái điều bảo họ: “Ở nhà Thủy có, hôm nào lại đây cho mượn.” Thi sĩ gật gù. Nhưng chàng ta có vẻ bực, chắc nghĩ rằng, một đứa con gái như tôi mà lại có sách của T3 mà Tô Tô lại không có để đọc? Song thực ra, tôi nói là nói vậy thôi, cũng chỉ là ra cái điều, chứ tôi không có cuốn đó.
Tô Tô quay sang hỏi bạn: “Về chứ Tuýt, hôm nào tôi tới thăm cô (quay sang phía tôi) và luôn thể mượn cô cuốn kia. Chúng mình hôm nay dượt màn kịch vui quá ta!” Tôi nói đùa ngay: “Tại vì các anh đóng dở quá. Chưa ăn tiền được, còn bị phạt nhiều.”
Hai bạn đi ra ngoài. Tự dưng tôi thương hại, ấy là tôi chưa phải dùng đến cái bùa, cứ mỗi lần nghe bạn kể chuyện xong, mệt nhọc lắm, tưởng câu chuyện của mình làm mọi người chú ý lắm, thì tôi đáp gọn lỏn hai tiếng: “thế à”. Tức thì, kẻ nói chuyện với tôi đâm ra luống cuống hết hứng kể.
Chúng tôi còn nhiều ngôn từ lạ, trò chơi đặc biệt; ngay ở trong nhóm với nhau, chỉ cần đôi ba lần không đi chơi chung, sẽ cứ như là hội viên mới nhập hội vậy. Anh em nói chuyện, mình cứ ngẩn ra, chẳng hiểu đầu đuôi thế nào cả.
Bỗng tôi trở về với công việc đang làm. Phòng trà khiêu vũ. Tiếng nhạc. Và tiếng người khách hỏi tôi:
“Sao em ít nói thế?”
Tôi cười. Quá ngấy. Với thằng con nít này, lợi dụng ghê gớm. Trên da thịt tôi. Tôi cau mặt. Nhưng không hiểu sao lại chẳng cần phản ứng thêm. Nhảy với nó hai bài, tôi sang bàn khác đang chờ. Một bạn quen từ xưa. Thế là tôi bỏ thằng bé ngồi một mình. Nó lại ngoắc cai gà. Cũng khen cho con nít nhiều bạc. Chị N. bảo tôi: “Thủy không biết sao, đó là văn sĩ H. nổi tiếng lắm…”
Tôi bèn hỏi: “Văn sĩ sao? Báo nào?”
Chị N. bảo: “Điện Ảnh”.
Tôi à một tiếng.
Khách mời tôi sang bàn trạc ngoài bốn mươi. Dáng người cao và nét sắc sảo của một người có học. Trắng trẻo ở màu da, loại người có tiền. Tư cách ở chỗ ít nói lạng quạng. Không lợi dụng da thịt. Kể ra là khá. Nhảy từng bài chọn lựa. Blues và Slow. Tôi không nhớ rõ chàng lắm, quen ở đâu; bao giờ, thì xin chịu. Hẳn là chàng biết rõ về tôi, với tôi thì có quen sơ sơ. Nhưng tôi quên chàng nhiều hơn. Khi nhảy xong, chàng dìu tôi về chỗ ngồi. Bây giờ, chàng gợi chuyện:
“Tôi là bạn của anh ấy (T6). Cùng trong tù với nhau, thời chính phủ Diệm, các anh đứng dậy hô hào chống chế độ cũ rồi bị bắt. Tôi biết cả luật sư X (T1), thẩm phán L (T4) và anh bạn văn sĩ R (T3) và cả Thủy.”
“Vâng, thưa anh, có lẽ vậy.”
“Tôi biết tiếng Thủy từ khi Thủy còn mở cà phê Huyền ở Đà Lạt. Và gốc tích của Thủy là người miền Nam, nhưng nói giọng Bắc. Ngay với chính người sinh trưởng ở Hà Nội cũng khó mà phân biệt được. Bây giờ anh ấy (tức T6) ở đâu, Thủy?”
“Nhà tôi đi Dalat ít hôm anh ạ.”
Một cái ngoắc tay, gọi bồi. Gọi chị N. cho khách. Qua câu chuyện nói với chị N. khách muốn mời tôi sang Moulin Rouge. Cho khách tính tiền luôn thể. Chị N. bảo với khách là tính sáu, nhưng với khách quen thì tính năm. Quay sang phía tôi; chàng xin lỗi trong ít phút để chàng đi tìm người bạn. Tôi gật đầu. Trước đó, anh bồi đưa lại cho tôi một gói Salem. Thầm nghĩ, anh chàng này hào hoa lắm; tại sao chàng biết tôi hút Salem?
Tôi ngồi vào ghế cuối phòng. Gác lửng, ở tận cuối. Chẳng muốn thò mặt ra. Tôi bảo chị N. rằng không tiếp ai nữa, vì hôm đầu đi làm mệt.
Nhân dịp này, tôi muốn nhắc lại chính tôi, một vài chuyện gần nhất.
Sống với T6. Một dịp may hiếm có và cũng là một tai họa hiếm có. Nhờ chàng bốn mươi vô danh bặt thiệp; tự nhiên chị N. thấy sự đi mời tôi làm lại là chị có con mắt tinh đời. Bây giờ tôi đã thấy mình thua sút xưa. Về sức khỏe. Xưa kia, rong chơi suốt sáng không biết gì là mệt... (một đoạn dài nói về T3 và Thủy bị mất quãng, nên thay vào đó những chấm liên hồi...).
Trước hết tôi quen T1 trong nhóm. Sở dĩ tôi chỉ kể ra đây có T3 vì chính những người ấy, với tôi là nhân vật chính. Ngoài ra, còn nhiều T nhỏ, như Tối văn Sáng, cựu trung úy tình báo; rất giỏi về điều tra tiểu sử đàn bà con gái Sàigòn. Rồi có lẽ chỉ vì vậy; mà bị sa thải trong nghề chăng? Nhiều khi muốn tỏ ra là tay ăn chơi; hắn biết cả những tiểu sử không biết về mọi người con gái đẹp đi qua quán La Pagode. Thêm một tên T. nhỏ nữa là Thùng. Cử nhân hai. Một lần T3 bảo Thùng (T nhỏ) rằng: “Thời đại nào thì mày cũng chỉ là thằng môi giới con gái. Nhưng mày hơn đời là trí thức vì có kiến thức chứng chỉ cử nhân hai.”
Sau khi quen với T nhỏ, Tối Văn Sáng rồi, tôi quen T4. Vì T4 tối ngày ở La Pagode với tôi, tán tụng T4 có nhiều tính nết giống tôi. Như T4 thích cảnh ngồi đây uống cà phê vào chiều; màu tím hoàng hôn buông thả thật thơ mộng trên cành lá ở vườn cây công viên. Ít lâu sau, gặp T2 rồi T5. Và cuối cùng là T3. Anh này rất ít khi đi chơi với anh em và không đứng về phe nào; anh cũng chẳng góp ý kiến gì, về sự tranh chấp tôi, giữa T4 và T6. Song tôi chú ý đến sự yên lặng của anh. Tôi lấy T6, vì chàng có dáng của một đàn ông hơn T4. Và tôi phục T6 ở điểm dám chửi chính phủ Diệm thật bạo miệng. Tôi thú vì đó một phần. Còn về tiền, T4 có số lương thẩm phán chắc chắn. Nhưng tôi không ưa dáng người tủn mủn và lối nói chuyện của chàng; nếu cần phải lựa chọn một người chồng, có đủ yếu tố giữ thăng bằng cho gia đình thì tôi chọn chàng. Song với tình yêu và hợp gout, tôi không thích cái vẻ lễ phép của T4 mà chọn T6. Nhưng nếu không có T6, chắc chắn là tôi lấy T4. Đàn ông độc thân là một điều thua thiệt. Một lần T tối mời tôi đi chơi, rồi nhân đó anh nói chuyện với tôi về T3 nhiếc T6: “Mày đừng tưởng làm cách mạng theo kiểu mày là hay đâu? Thứ cách mạng ấy không có tao trong đó. Lúc nào cũng bô bô cái miệng. Tao cần dẫn giải câu ngạn ngữ này cho mày dễ hiểu. Con hoẵng không cắn chết ai, vì nó to miệng. Con rắn độc cắn chết người lại nằm lủi bên vệ đường phun nọc vào mày; ít phút sau mày thấy hiệu nghiệm ngay.”
Tôi hỏi T tối tại sao lại có vụ lộn xộn kia? T tối đáp:
“Một buổi tối, tôi gặp T6 và T3 ngồi uống cà phê. Một trong hai chúng nó ngồi gác chân lên thành ghế. Cái lối ngồi của T3 làm phiền mọi người và điệu bộ coi đời như cọng rác làm T6 nóng mặt. T6 bảo nó: ‘Tao không hiểu sao anh em thằng T2 và T5 chịu khó đọc sách của mày và hết lời tán tụng’.” T3 trả đũa: “Tao cũng cần nói thêm cho mày nghe, mày còn là thứ vô liêm sỉ, anh hùng vỏ bao Salem. Mày có cần hiểu rằng tao không ưa lối phê phán về tao theo kiểu mày không? Vì mày làm gì có tư cách mà mày phê phán tư cách tao. Khi mày không có một đồng; xin bè bạn được rồi, lại tiêu như con nhà trọc phú, thử hỏi mỗi đêm không có bao Salem tặng người mà mày có thể làm cách mạng được”.
Khi nghe T tối kể đến đây; tôi chợt hiểu rằng T6 yêu tôi chân tình và tha thiết. Chính điểm này khiến tôi cảm động, vì anh biết tôi thích hút Salem. Bao giờ anh cũng chờ tôi tới khuya; hồi ấy các vũ trường chỉ được dùng vũ nữ làm chiêu đãi viên thôi; luật lệ nghiêm ngặt, không được phép khiêu vũ; theo lệnh của bà Ngô Đình Nhu. Với T6, một kẻ không tiền bạc, không nghề nghiệp yêu mình, tôi thấy chân tình hơn hết. Nên tôi quyết định lấy T6 làm chồng. Hai chúng tôi vẫn sống với nhau trên căn gác thuê hiện tại. Anh chạy xoay sở tiền nong; có khi bí quá, bán cả chiếc Solex, cả đồ dùng, để có tiền chi tiêu trong gia đình.
Nhưng từ ngày anh rể làm ăn thất bại, gia tài khánh tận, T6 bị rơi vào vực thẳm. Rồi hai ông bà thân sinh ra T6 tiếp nhau qua đời, T6 buồn và cô đơn hơn ai hết. Anh là người theo đạo Thiên Chúa; nhưng ít khi đi nhà thờ và tham gia phong trào chống chính phủ Diệm, tiếp tay cho Phật giáo. Như vậy tôi sung sướng rồi còn gì nữa! Còn tinh thần, cũng như sự lo lắng về đời sống vật chất cũng tàm tạm đầy đủ. Tôi sống cho tôi và tình yêu vừa hé rạng. Khi tôi mang thai con so; bây giờ là cháu trai, tôi một mình đơn lẻ. Anh ấy bị cầm tù. Tờ nhật báo xuất bản vào khoảng tháng tám năm đảo chính, đăng ảnh anh kèm những hoạt động. Sau chính biến hẳn đời sống của chúng tôi sẽ khá lên. Có thể một trong băng của anh ấy sẽ là Tổng, Bộ trưởng và khi ấy tôi đã đóng góp vào danh dự đường mây của anh ấy đạt được. Khi người ta có ý chí để theo, thì chấp nhận mọi khổ ải.
Vào những đêm nằm một mình trên ghế xích đu, từ trên cao sân thượng nhìn xuống, tôi hút Bastos xanh; để giải nỗi buồn, vút lên không trung cao thẳm. Nhưng lòng tôi sung sướng, ít ra cái ngõ này đã nhìn tôi bằng con mắt khác xưa.
Khi chồng tôi bị bắt ít lâu sau, báo chí đăng tải hình ảnh, bài vở; thì lúc ấy tôi thương và quý anh; như từng chưa dành cho một người đàn ông nào biết tới được hưởng. Anh bị hành hạ, tôi càng yêu mến anh nhiều. Tôi hãnh diện có người chồng như vậy. T1 thì trốn chạy. T4 ở ngoài. Một lần T tối lại báo tin cho tôi biết T6 mời T3 tham gia phong trào nhưng chàng văn sĩ từ chối. Tôi khinh T3 ra mặt, người mà xưa kia tôi cho là khá. Chỉ khi nào nguy hiểm, người ta mới rõ lòng người. Cổ nhân không mấy sai lầm.
Nhưng một hôm chàng văn sĩ tới nhà tôi. Qua câu chuyện, tôi biết anh không tham gia với băng của chồng tôi vì lẽ anh coi thường băng kia và không muốn thí thân vào nhóm họ. Nhưng anh vẫn bị chính phủ theo dõi. Tôi có người bạn phụ trách về an ninh, một hôm anh kia hỏi thăm về T3, và cho biết anh ta đang bị ruồng bắt. Tôi định đi tìm T3 để báo tin này nhưng không biết anh ở đâu nên cứ thấp thỏm lo cho anh, có thể là anh đã bị tóm rồi. Sau này gặp lại, tôi biết anh lánh ở Cao nguyên Dalat.. Ngày đảo chính thành công, nhà tôi được trả tự do. T1 và T tối trốn ở nhà T4. T3 bảo anh em: “Thằng T4 cũng không đến nỗi gì như tao tưởng, nghĩa là nó không hèn đâu. Vì nó còn dám chứa hai thằng bạn tranh đấu.”
Từ khi chồng tôi ở tù ra; tôi thấy anh có phần thay đổi, ít nói bông lông và suy nghĩ chín chắn. Anh thú thật với tôi; ở giai đoạn về sau này, anh cũng chưa có thể làm gì cho gia đình khá được. Chúng tôi vẫn sống chật vật chẳng hơn xưa là bao. T1 cung cấp cho chúng tôi, nhưng chẳng là bao. Cho rằng bạn bè có giúp tiền, chỉ là qua cơn túng ngặt chứ không thể dùng nó vào hàng tháng được. Nhà tôi nói lại với tôi về câu T3 nói với anh, có lý: “Tao mừng cho chúng mày, thằng T3 nó nói với anh vậy, không rục thân trong nhà đá. Sẽ vẫn chẳng có gì thay đổi đâu. Nhưng có lợi về kinh nghiệm cho mỗi bản thân. Khi thấy cần tranh đấu, dấn thân vào. Nhưng đừng mong rằng mọi việc có thể thay đổi dễ dàng chóng vánh. Muôn năm bất công vẫn còn đấy. Chỉ có một điều là thay đổi, đó là cái bất công sẽ biến dạng nhiều hình thức. Chẳng hạn thằng T nhỏ Cử nhân hai vẫn đóng tuồng tích cũ của nó. Thằng T tối vẫn lếu láo, nói dóc cả điều mà tự nó đặt ra như thuộc tiểu sử tất cả các cô gái Sài gòn lượn qua La Pagode. Có nhiều tiểu sử mà nó huênh hoang biết ấy; chính biết cả điều không biết. Nhưng với T6 tao khuyên mày một điều. Sức khỏe. Mày đã chạy được tiền nằm nhà thương chưa? Những trận đòn của chính phủ cũ có hiệu lực làm cho mày hao mòn trong nhiều tháng dưỡng sức.”
Gia đình chúng tôi, từ sáu tháng nay vẫn eo óc. Hai đứa thôi, có thể nhịn được; sự kham khổ có gì là câu nệ. Nhưng con của chúng tôi, thì không thể không có tiền nuôi nó. Nó cần sữa, cần thuốc tây khi ốm và cần quần áo thay đổi hàng ngày. Những thứ đó phải có tiền. Mà chồng tôi vẫn chưa có việc làm xứng đáng với công lao xưa mà anh tham gia chống chính phủ Diệm. Nên tôi quyết định đi làm vũ nữ lại. Tôi biết điều này sẽ làm chồng tôi đau đớn, nếu anh có ý thức làm chồng. Còn gì khổ hơn; mỗi lần anh thấy có người đàn ông khác đưa đón tôi về, tiếng em, tôi buộc phải xưng hô với họ. Dầu là sau mặt chồng tôi. Nhưng con tôi cần tôi có tiền nuôi nấng. Tôi trình bày sự khó khăn muôn mặt đó với một con bạn đồng nghiệp. Từ đó mới có sự móc nối với chị N. Và chị N. đã buộc tôi phải đi làm.
Tôi nhìn đồng hồ tay. Sao lâu vậy, tôi đợi ông khách đã trả năm tích-kê bảo tôi đi nhảy nơi khác. Vẫn chưa thấy chàng trở lại. Tôi chưa gặp loại khách như vậy bao giờ. Hơi là lạ, có phải vậy không? Tôi nhớ lại rồi, chàng ta quen gần hết cả băng T. Chàng thuộc vào loại khách biết điệu và sành giữa lúc này.
Chị N. đưa một đồng nghiệp của tôi vận complet đen tới. Và nó khá xinh nhưng theo tôi hơi quê. Chị N. giới thiệu cô với tôi và tôi với Nguyệt. Tôi nói với Nguyệt:
“Tôi có nghe chị N. nói về Nguyệt nhiều.”
“Nguyệt nó vẫn nhắc đến Thủy luôn,” chị N. tiếp “Nguyệt kể rằng khách thường hỏi thăm về Thủy.”
“Hèn nào mà khách sang không hỏi thăm chị. Chị cho em làm em chị, nghe chị Hai?”, Nguyệt nói với tôi.
“Có gì đâu mà Nguyệt khen tôi. Chị em cả mà.”
Nguyệt nhìn tôi từ đầu tới chân. Sau khi ngắm nghía chán rồi, Nguyệt kể chuyện về loại khách tới đây. Trong số đó có một văn sĩ, thường đi với khách ngồi bàn với tôi lúc nãy. Nguyệt không biết tên văn sĩ ấy! Nhưng em bảo chàng ta kỳ lắm. Tôi đoán chàng là T3, nhưng T3 vốn ghét không khí trà đình tửu quán; sao anh có mặt ở đây được? Nguyệt tả lại cho tôi nghe vóc dáng chàng văn sĩ ấy. Đúng là T3. Và Nguyệt có cảm tình với con người ấy rồi đây, tôi nghĩ vậy.
Vị khách tôi đợi đã trở lại. Chàng xin lỗi tôi, vì đi tìm bạn. Chàng ta ở quá xa, chàng lại không có nhà, nên trở lại trễ. Chàng mời tôi sang Moulin Rouge. Và nói nhỏ, đủ nghe:
“Tôi muốn dành cho em một ngạc nhiên. Tôi đi tìm văn sĩ R, nhưng chàng không có nhà.”
Sau hai tiếng đồng hồ ngồi bàn với chàng, những giờ vui gần chấm dứt. Chàng đưa tôi về nhà. Tôi không từ chối. Vì đợi tắc xi rất lâu và lại không an toàn. Ít ra là như thế. Khi gần tới ngõ nhà tôi, chàng hỏi:
“Ngõ vào nhà em có sâu lắm không?”
Tôi hiểu ngay là chàng muốn biết nhà riêng của tôi. Tôi gật đầu và chàng dìu tôi đi. Trước khi giã từ, chàng đưa tôi một gói giấy, tôi đoán chắc là thuốc lá Salem. Rồi chàng nói câu giã từ:
“Tôi rất phục em. Vì hạnh phúc mà em hy sinh rất nhiều. Như xưa, em thường hút Salem mà bây giờ đổi sang Bát tô xanh. Người cho biết điều này, chính là văn sĩ R.. Mà lúc nãy, để em ngồi chờ lâu, cũng chỉ vì tôi đi tìm R.”
Tôi cảm ơn chàng. Và đi lên gác. Chồng tôi nằm ở đó. Anh không nói với tôi một câu nào. Tôi không đòi hỏi vì tôi biết lý do rồi. Người khách đưa tôi chắc ra tới ngoài lộ. Chồng tôi nhìn sang phía tôi. Và nhìn thấy trên tay tôi gói thuốc Salem. Anh hướng về bao thuốc đó. Từ lâu không có. Tôi đi lại võng nựng đứa con, dù nó đang ngủ. Chồng tôi trở dậy, tay cầm bao thuốc định xé. Tôi xua tay và bảo:
“Để con ngủ. Anh hãy cho Thủy nói câu này, Thủy không muốn anh hút điếu nào của bao thuốc đó. Vì gout của anh là Lucky. Thủy đã mua cho anh đây này.”
Tôi mở ví lấy bao Lucky. Chồng tôi im lặng cầm, không lời cám ơn tế nhị. Anh bóc ra ngay, châm một điếu; lên giường nằm lại. Tôi vào nhà trong thay quần áo ngủ. Chúng tôi nhìn nhau như không cùng một hướng. Tôi vào giường nằm. Chồng tôi nằm trong, tôi nằm ngoài. Hai đứa xây lưng lại nhau. Tôi đang nghĩ đến màu xanh của Salem trên bàn ngủ, dưới ánh đèn ngủ lờ mờ. Cũng màu xanh, cũng vẫn Salem. Nhưng bao Salem hôm nay không phải là bao Salem của đêm nào, chồng tôi đưa lại. Có thể bao Salem này tiễn đưa hạnh phúc của chúng tôi?
Tôi ngủ thiếp đi và mong rằng chồng tôi không hiểu như vậy!
Chàng khách hào hoa của tôi ngoài bốn mươi, tóc hoa râm, tướng tá con nhà giàu, lịch lãm, có tiền, có lái xe riêng đưa chàng đến vũ trường nhảy nhót, ăn chơi. Chàng biết xài đồng tiền, nói như ngạn ngữ phương Tây, đồng tiền chàng kiếm ra chỉ là một đầy tớ được chủ sử dụng; không phải là tên thầy xấu. Nhớ lại lúc chàng tiễn tôi ngoài cửa, chàng nói rất nhỏ:
“Ngày mai tụi này đi Dalat. Thủy có thể cùng đi thì hay quá! Người xưa gặp cảnh cũ bao giờ cũng tuyệt vời!” Chính câu nói bỏ lửng sau cùng này đánh thức dĩ vãng tôi, vào thời gian mở quán cà phê Huyền ở đó. Tay Thị trưởng thấy khách nườm nượp đến đây, nhiều nhất là sinh viên, quân đội, ông thấy ngại nên ra lệnh đóng cửa. Cũng phải thôi, không trách ông được, có buổi trưa, tôi nói thật – không xấu hổ – tiếp mười tám thanh niên trong vòng mấy tiếng đồng hồ chung chăn gối. Thân thể rã rời, mệt lơ lửng; nhất là khi tiếp người mình có chút tình cảm. Một số sĩ quan quân đội cô-vơ cho quán rất khó chịu khi nghe tôi dự định về Sàigòn. Một chàng có cảm tình với tôi bậc nhất gằn giọng:
“Anh sẽ lên gặp hắn, bảo hủy lệnh này. Nó là bạn cùng khóa với anh xưa đó.”
“Không được đâu, bạn là bạn. Nhưng lệnh đã ra khó rút. Thế anh không nghe em kể, khi ông mời lên gặp, ông tâm tình như tình anh em. Mấy ông lớn Sàigòn ra lệnh thì chịu!”
Thời kỳ Tổng Thống Diệm ra lệnh, không được ngắt một cành hoa anh đào, một nhánh thông rời khỏi Dalat. Bắt gặp trên đường bộ, khách mang theo bị phạt tiền và tài xế xe liên đới chịu trách nhiệm: từ hai đến ba, bốn tiếng, xe bị giam tại chỗ. Nhà xe sống bằng nghề xe, chạy càng nhanh, càng quay tua nhiều hơn. Có xe trong hãng Minh Trung, chạy Sàigòn - Dalat chỉ bốn tiếng mười lăm phút. So sánh một người mua vé máy bay, ra trạm ở Phạm Ngũ Lão lên Tân Sơn Nhất, chờ chuyến, lên máy bay, sau đến Liên Khương. Rồi ở Liên Khương chờ xe ca đưa về Dalat trên dưới ba chục cây số đường bộ, người đi xe Minh Trung đã tới từ lâu. Như vậy, lệnh Sàigòn đã ra, Thị trưởng Trung Tá chỉ còn nước van vỉ chủ quán Huyền trả nhà, ôm va li về Sàigòn thôi.
Cảnh sát ở đây cũng biết rõ quá đi. Thanh niên ra vào nườm nượp, luân phiên lên lầu, tôi lấy điếu thuốc châm, hít một hơi là đá phóc một anh ra ngoài lâm trận làm tình. Tôi không thể ngờ mình dai phông như vậy. Bây giờ, chàng khách của tôi mời lên Dalat, làm sao chối từ. Mặc dầu tôi và T6 sống chung như vợ chồng mà thật ra là non vợ chồng, già nhân ngãi. Chúng tôi đã có một cháu nhỏ ngoài ba tháng. Thực tế đời dạy cho tôi không được coi thường, khi con khóc, đói; cần có sữa pha, con đau, cần có thuốc, quần áo, tã lót ... Tất cả những thứ này cần phải có tiền. Nên tôi nhận lời cai gà, chị N., đi làm là vậy. Đi chơi xa với khách quen, không thể giữ được, hiển nhiên thế. Nhưng tôi cũng cần thay đổi không khí, và sự đó có xảy ra; cũng chẳng là cái gì, bởi tôi chưa là vợ chính thức của T6 kia mà! Tôi tặc lưỡi, gọi cho phía bên kia, nghe được:
“Em đồng ý. Cho xe đến đón em. T3 có cùng đi với anh không?”
Một chút ngần ngừ nơi điện thoại. Rồi chàng đáp:
“Anh chưa cùng đi. Lên sau một ngày. Cho xe đến đón em và T3 cùng đi. Tụi anh lên Dalat còn công việc khác, rồi em sẽ biết.”
Chiếc xe hơi từ từ lăn vào khúc quẹo cầu Định An, chỉ còn cách Dalat mười bốn cây số. Bên trái Núi Voi sừng sững, bao nhiêu năm trải qua biến đổi, thời gian vẫn như nhìn xuống phía dưới đầy thay đổi biến thiên. Chiếc cầu này, vào khoảng năm 1942, chứng kiến anh tài xế Phủ Toàn Quyền chở Phu Nhân lên Dalat gặp Hoàng Hậu Nam Phương. Như dự định, hòa giải mâu thuẫn gia đình với Hoàng Đế Bảo Đại. Ông vua không ngai, mặc dầu trị vì nước, nhưng đám quan thầy Tây đứng phía sau chỉ tay năm ngón, đi vào Kinh giữa ban ngày còn dám ghẹo nguyệt giữa thanh thiên, ngả bàn đèn phụ nữ trên sập như kèm theo ẩn dụ, “Ta sang đây với tư cách là Khâm Sứ Quan Đại Pháp làm cho dòng giống chúng mày lai căng hết. Khí huyết tao mạnh như khí huyết dân da đen chung chạ với phụ nữ da trắng, sẽ có đứa con lai tóc quăn, da bóng nhẫy màu đen.” Thanh niên trai tráng, lính Phù Tang( Nhật) , cưới vợ Đại Hàn làm lai giống dòng dân tộc này. Tôi nghĩ thật đúng, từ lối cúi đầu chào theo kiểu Nhật; dân Đại Hàn cũng hùng hục làm tình, xong rồi chân trái đá sang phía nam, chân phải phía tây; xốc quần lếch thếch bước ra cửa vội vã, còn quay gập người lại một trăm tám mươi độ chào người đàn bà Việt Nam vừa cho anh ta được hạ hỏa.
Chính khúc cua cầu này, xe lật, bà Toàn Quyền Decoux qua đời ở đây, không kịp trối trăn, chẳng kịp gặp Nam Phương Hoàng Hậu triều Nam; nhưng rồi chuyện tình của ông vua ba lăng nhăng tình ái này vẫn kéo dài cho đến bây giờ, có chết chóc ai đâu?
Tôi vừa châm điếu thuốc lá, T3 văn sĩ hỏi ngay:
“Bà nghĩ gì như là nhớ nhung ai đó, có kỷ niệm sâu sắc gì với khung cảnh này?”
“Đúng. Nhớ phu nhân Toàn Quyền chưa kịp lên Dalat đã gửi phút giã từ ở đây.”
“Vậy tối nay bà có thích ăn cơm Tây, do bếp quan Toàn Quyền Decoux nấu không? Tôi không phịa đâu, ngon nhất là món bí-tết Chateaubriand, khoai tây chiên tuyệt vời. Bà ăn, sẽ thấy được điều này nhé. Cũng vẫn là thịt bò phi-lê, cũng khoai, cũng mỡ, nhưng tay chiên của người này có khác người kia. Đó cũng là cái tài thiên phú, có phải vậy không?”
Trời Dalat se se. Một làn gió như lùa qua làm mát lạnh mặt mày. Một thứ gió khác, như báo cho biết không khí trong lành ở đây bắt đầu. Thủy ngả người ra phía sau. Bây giờ T3 mới nhìn rõ cặp môi dầy, như tướng tinh dạy; đam mê nhiệt tình, nếu hôn không đủ độ, Thủy sẽ vít cổ xuống buộc hôn cho đã điếu. T3 nhớ lại lần Thủy kể: tiếp khách một hơi gần hai chục mạng. Nghe như huyền thoại, nhưng thực ra vô cùng thực dụng đối với bản năng sức vóc Thủy. Người gốc Nam, nói giọng Hà Nội tuyệt nhiên nếu không muốn gọi là hơn cả người Hà Nội cơm trắng, nước trong, thanh lịch Tràng An. Thằng nào lúc chưa, cũng hùng hục; vội cởi quần áo, lao như thú vồ mồi. Mồ hôi nhễ nhại, một, hai phút quay lơ; lấy ngón tay chọc vào hông, đuổi xuống. Thằng khác tiếp theo, cũng không hơn, hùng hục, rồi anh cuốc, em cào, anh nhoai, em ruổi, rồi lục cục lào cào, cuối cùng anh mệt nhoài; lại ngoắc tay, tiếp thằng khác. Ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, khoan ... cho châm điếu thuốc. Hít một hơi, thằng khác tiếp; mấy rồi, bẩy, tám, ..., mười hai, -ba, -bốn, ..., đếm chậm lại, còn bốn thằng nữa. Dứt. Tiếp tục. Thằng mười tám, phán: Xong, bây giờ nghỉ. Không ai nữa.
Giờ này thằng nhóc ba tháng mới cục cựa, chắc là đói, đòi bú. Thủy đem theo con, như có ý muốn bước một bước mới khác đường đời cũ.
Chàng bốn mươi nhà buôn khá giầu có, có vợ con, con gái dăm ba đứa. Đứa lớn đi với Thủy như hai chị em. Đào, xinh nhất, người cao cao, đôi môi mọng, khuôn mặt trái xoan bắt mắt đàn ông, giọng ngọt ngào đầy duyên thầm, như chàng bốn mươi cho biết sửa soạn tuyển một anh Mẽo làm con rể, hải quân đại úy. Chàng bốn mươi là con rể độc nhất của đại kịch sĩ kiêm giám đốc nhà xuất bản Tân Dân lớn bậc nhất Hà Nội. Ông có cô con gái rượu duy nhất lọt vào tầm mắt chàng bốn mươi họ Đinh. Đinh cũng là một kịch tác gia như bố, bé hơn; nhưng anh em gọi là nhà văn. Anh làm thơ, anh viết kịch, anh viết văn; gặp nhau giới thiệu chung chung: nhà văn là bảnh nhất. Gọi là nhà thơ, nhà viết kịch, đối với người đời, như là người có nghề mà không có nghề, nó chẳng có ấn tượng gì đối với người được giới thiệu. Nhà văn họ Đinh tiêu tiền như rác, điều này Thủy biết rồi! Những trận rửa tiền ở Tự Do, Moulin Rouge, Olympia... Rồi chàng vút trên chiếc xe hơi Mỹ đen loáng, rộng và lớn mênh mông. Thủy tự bảo mình cứ lấy anh chàng này làm chồng đã chết chóc ai; có phải hát bài Chiều trên bến Tam Giang đâu mà sợ ( ). Con cái anh ấy lớn hết rồi, đứa có chồng, con trai còn nhỏ, mà Thủy yêu anh ấy hơn là với T6 bây giờ. Thêm vào, có được sự chu cấp từ nơi Đinh, con chung sẽ lớn lên bằng sữa, bằng cơm gạo, không bấp bênh như hiện tại. Thủy làm vũ nữ, nghề này có hay hớm gì đâu, kiếm được tiền cũng là đồng tiền xiết máu.
Đứa con bú ngon lành trên xe, nét mặt ngây thơ không lo lắng gì, như nó biết có sự che chở lớn lao của mẹ, nó không sợ hãi gì.
Xe bắt đầu vào bến. T3 gọi chiếc tắc xi Peugeot, mở cửa mời Thủy bế con ngồi băng sau. Anh lên băng trước chỉ đường cho tài xế bon chạy về khách sạn Au Sans Souci... lẩn trong rừng thông mờ sương.
Khách sạn Au Sans Souci, ở mặt tiền đường Nguyễn Trường Tộ là cơ sở chính, nơi tiếp nhận khách là văn phòng. Biệt thự nằm trong rừng thông, nhìn lên đường Trần Hưng Đạo lẩn trong rừng thông, có sáu phòng. Hai phòng lớn, T3 ở một phòng cùng với Thức và Phong, hai bạn trẻ, người của Đinh, trong việc lên Dalat để đào mỏ vàng ở Phi Nôm. Thủy và đứa con nhỏ ở một phòng lớn đối diện.
Chẳng là, Đinh mua được bản đồ của một nhà báo có tên Phan Chu Tế, gốc Đà Nẵng, ra Bắc làm báo trước năm 54, cùng trong tòa soạn nhật báo Tân Dân với T3 thuở mới vào nghề của văn sĩ này. Theo như kể lại, Đảng Hắc Long của Nhật vơ vét vàng ở Đông Nam Á hồi thế chiến thứ hai, đem giấu ở nhiều nơi. Một trong những mỏ vàng lớn nhất ở Krong Pha, trước đây, Nhật đã ký thỏa ước với gia đình họ Ngô, thành lập Nhà Máy Điện Đa Nhim, gọi là bồi thường chiến tranh cho Việt Nam. Bà Ngô Đình Nhu, người được giao quyền làm ăn với Nhật, kinh tài cho họ Ngô, người từng có thời gian đem thân lụa là trải thảm cho Thụy Hoàng, lót đường cho anh chồng được đưa về làm Thủ tướng. Bà thuộc Dalat như người bản địa, bà từng nằm trên lá thông khô xào xạc giữa ban ngày để cùng ai ghẹo nguyệt, vấy khí lên thân. Bây giờ tuy không sung sức như hồi ấy, bà vẫn còn quyến rũ, sức hút đam mê đàn ông, như giọt mật vàng óng ánh chôn chân bọn đàn ông ham muốn nơi bà. Bà xây một biệt thự thật tráng lệ nguy nga, bể tắm phun đầy sữa, để tấm thân ngọc ngà nhầy nhụa vẫy vùng. Thủy nghĩ đến đây, quay lại chỉ vào đoạn thơ có hàng chữ:
... Tôi muốn theo người tình không bao giờ cần cưới để hưởng đêm tình ái Dalatt vô cùng ấm lạnh mà quên đi quên hết...
“Bà Nhu thật đẹp, quyến rũ ông ạ, Thủy quay lại hỏi T3 đang cầm chiếc nĩa cắm miếng khoai tây đưa lên miệng. Ông đưa tôi đến 26 Hoàng Diệu này ăn bí-tết, quán Ba Cao, chủ là bếp tài ba của quan Toàn Quyền, có thật vậy không? Cái kiosque bát giác này của ông chủ cũng rất lạ lẫm, khác với bất cứ kiến trúc nào? Tôi cũng muốn được làm bà Nhu một đêm nhầy nhụa đấy ông ạ.”
T3 vừa cười vừa dẫn giải:
“Bà làm tôi nhớ đến một câu chuyện được viết thành tiểu thuyết, một nữ văn sĩ tiền chiến, cũng có đời sống tình ái có thể là khá nhầy nhụa. Nên từ đó, bà viết cuốn Một Linh Hồn, tả gia đình của ông bà Trần Văn Chương, bố mẹ Trần Lệ Xuân đấy. Vậy thì bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu này là người ăn rất ít cơm, nhưng phung phí nhiều sức vóc nhụa nhầy của giọt sương nhầy nhụa.”
“Ông nói tôi chả hiểu gì cả.”
“Dễ thôi. Ba bát cơm mới được một giọt máu, ba giọt máu được một giọt đám mây trôi. Một đêm ân ái ở Dalat này, bà ấy ăn ít cơm – nhưng đổ nhiều giọt sương nhầy nhụa!”
“Ông đúng là thằng phải gió!”
Vào Tulipe chán lại sang Night Club. Thủy khiêu vũ với Đinh. Thủy chẳng nghĩ gì tới con vào lúc này. Đã có người vú, Đinh thuê coi sóc ở khách sạn. Nửa đêm, có tiếng quen quen gọi từ ngoài:
“Anh đây.”
Nhà văn mang tên Đinh rất hào hoa. Người to lớn, trông cứ như có giọt máu lai giống như Hoàng Đế Việt Nam cuối cùng triều Nguyễn. Chẳng lẽ Thủy lại hỏi, thế này hơi bất nhã. Anh tự lai giống hay bà cụ anh đẻ ra anh đã bị thằng Tây ghẹo nguyệt giữa ban ngày? Nên bây giờ anh đẹp trai, khỏe mạnh, đàn bà như em hăm mấy ngoài ôm cứng lấy anh, thật sướng. Lại giữa đêm khuya Dalat như giấc này. Anh cởi áo ra, không cần tắm làm gì, vẽ chuyện. Để em thử sức với anh. Thằng yêu dấu chung chăn với em cách đây mấy bữa, bệu quá. Nó là chồng em thật; nhưng chỉ quết nhựa, kiểu mưa không ướt đất, mà cũng có thằng nhóc thật kháu ba tháng tuổi đấy. Kinh nghiệm các cụ dạy, làm tình với người khác phái; nam yếu, sanh trai; nữ yếu sinh gái: Chắc em yêu anh lần này sanh gái hay trai?”
“Để anh đi tắm đã, em. Anh nóng hơn em nhiều. Những lần ôm em vào lòng khiêu vũ, anh vẫn phải lấy tay giữ nó lại. Sau đó giả vờ gãi gãi như có muỗi đốt ở vũ trường. Nhiều lần ôm em vào lòng, chưa một lần hạ hỏa; nó canh cánh thế nào ấy, tưng tức ở bụng dưới. Đành vào nằm cạnh vợ cái, lại không chào cờ được. Thật lạ, Thủy ạ!”
“Em cởi khuy áo cho anh đây. Và anh đừng hôn em chứ. Trước sau gì, ở đây, không thích; em vẫn cho anh cơ mà. Nói thực ra, em cần anh hơn anh cần em. Bấy lâu nay, chưa lần nào em được cùng tuôn chảy một lần ân ái với chồng.” Thủy nhớ lại ngày xưa, mười tám, đôi mươi, ôm gần hai chục mạng chỉ có một đứa làm Thủy sướng; một lần tuôn chảy mà thôi. Thủy mong cái đinh ấy cứng cáp để nàng được cậy nhờ.
Nước chảy trong phòng tắm làm nàng nôn nóng. Nàng cởi váy ngủ, phủ chăn lên thân người, mắt nhìn lên trần nhà. Một cảm giác thích thú của dục vọng len lỏi qua máu Thủy. Chẳng lẽ mình bắt đầu yêu chàng thực? Không? Có? Nhưng điều này khiến nàng hưng phấn, nằm bên cạnh chàng lần đầu, sau rất nhiều đêm ở vũ trường ôm sát vòng lưng. Lâu nay, hôn không còn làm cảm giác thích thú như ban đầu. Lưỡi này đánh đáo lưỡi kia chẳng tạo một cảm giác nào, ngoài lợm giọng nước miếng. Nhớ lần đầu tiên, nàng bị mất cái quý nhất, tên hiếp dâm lực lưỡng, có cái nhìn như xoáy chém da thịt, bàn tay nhám của lưỡi con mèo lướt qua da. Hắn ta lột hết quần áo nàng, nhét vào miệng khăn tay và bắt đầu mưa hôn. Chẳng kêu cứu ai được trong căn phòng trên gác ba; chính nàng cũng muốn biết cảm giác này lần đầu nó như thế nào? (...)... Bây giờ, nghĩ lại không thể bảo hắn hiếp mình được, chính nàng cũng hiến dâng cho kẻ chinh phục xứng đáng là đàn ông biết làm đàn bà, con gái sướng. Chẳng bù cho T6, vừa hùng hục cởi quần áo đã nhảy phóc lên; tìm môi trường hít đất, đôi cánh tay không thể đỡ nổi thân còm, nhịp nhàng lên, xuống, rồi... xuội lơ. Sau, ngủ, ngáy o o, nước dãi chảy ra từ khe miệng, trông tởm. Ngủ dậy, T6 hỏi vợ: “Em thấy sướng không?” Cái gật đầu thay thế lời nói. Rõ là giả dối, nhưng cũng đành. Chỉ quết một khí huyết, nửa giọt sương hoa, cũng đủ tạo hình hài con trai âu yếm của chúng ta. Có phải không người chồng yêu dấu làm em sướng? Tôi nói dối còn thực hơn thực; nên chồng tôi chớp đôi mắt trên khuôn mặt đàn ông, có râu quai nón hãnh diện vô cùng!
Bản nhạc dứt. Đèn bật sáng. Đinh dìu nàng về chỗ ngồi. Lúc này trên bục lại có lời giới thiệu ca sĩ mới, Khánh Ly. Tên ca sĩ hoàn toàn mới, giọng ca có bản sắc, nhưng mới vào nghề, non trẻ đáng yêu. Thấp thoáng gần đấy, có anh cảnh sát mặc cảnh phục Cảnh sát Dã chiến, mắt láo liên như bảo vệ hình hài ca sĩ trẻ. Đinh nói chuyện với T3: “Ông không nhẩy sao?”
“Không, tốt nhất là tôi nhìn người ta nhẩy. Người ta nhẩy với nhau đẹp hơn tôi nhẩy. Và họ âu yếm với nhau hơn tôi âu yếm.”
Tôi cười, nhớ tới Nguyệt, bạn đồng nghiệp của tôi ở Tự Do, có lần hỏi dò về T3. Ông văn sĩ này lẩm cẩm lắm chị ạ. Em nói, chị đừng cười. Có lần ông ta đưa em về nhà, rạp Quốc Thanh. Ông ta đi bên cạnh em, cứ nép về một phía, như sợ chạm vào thân hình em. Em lại càng trêu tợn, đi sát vào, ông ta né. Ông này có vẻ khiếp sợ phụ nữ, nên em càng trêu chọc. Khi gần đến phòng em, em mở cửa mời ông vào chơi. Em thuê ở đây với chị em, bữa nay chị em về Vĩnh Long, em ở nhà một mình. Ông ta nhìn đồng hồ, nói là quá khuya rồi. Ông quay gót chúc em ngủ ngon. Chị biết hôn, ông ta bỏ lỡ dịp may...
“Này T3 ơi, Nguyệt Tự Do, ông nhớ chứ? Cô em khá xinh, tuy hơi quê một chút. Ông định cắm sào, đưa đón nàng đi làm, tôi tình nguyện mối mang. Con bé này làm vợ là số dzách đấy”!
Đinh chêm lời:
“Ông sợ nghèo phải không? Kỳ này chúng ta trúng mỏ vàng ở Phi Nôm, tôi chia cho triệu phú cưới vợ nhé.” “Chưa đỗ ông Nghè, đã đe hàng Tổng!” Thức nói với tôi, “bây giờ đào chưa thấy gì thì còn anh còn em. Khi đào thấy vàng, có thể anh em giết nhau vì vàng đấy!”
Hàng ngày, chỉ có Thủy ở nhà với cậu nhỏ, chúng tôi ra đi từ sáng sớm xuống Phi Nôm. Có lần T3 gặp Phạm Công Thiện, giáo sư Anh văn dạy tư cho con cháu công chức Vĩnh Tường kiếm cơm. 16 tuổi, chàng này đã cho xuất bản Anh ngữ tinh âm khiến học giả Nguyễn Hiến Lê lắc đầu, tấm tắc khen. T3 nhớ lại chiều thứ bảy, anh và Thiện đi xe Minh Chánh về Mỹ Tho, nhà bố mẹ Thiện mở cửa hàng bán xe đạp và phụ tùng xe gắn máy ở 41 Thủ Khoa Huân. Ở lại ngủ với bạn một hai đêm, sáng thứ hai cả hai lại trở về Sàigòn, mỗi đứa theo nghiệp văn của mình mở rộng lãnh địa.
T3 hơn Phạm Công Thiện chín tuổi, thằng tuổi rắn, thằng tuổi khỉ, bây giờ gặp nhau ở đây: Phi Nôm. Thằng đi đào vàng, thằng dạy to be or not to be... Chán thật, nhưng vui!
Buổi chiều, khoảng bốn giờ, chúng tôi thay quần áo, lên xe hơi về Dalat, tắm rửa, thay quần áo đi ăn, tối khiêu vũ. Và Đinh còn nhẩy đầm theo hai nghĩa, không biết anh chàng này nhẩy đầm với Thủy hiệu quả tới mức nào? Hiệu lực hay không, rồi ra Thủy cũng tâm sự cho mình biết thôi. Một nụ cười ruồi chỉ cho một mình T3 hiểu ý nghĩ của chính mình.
Thủy nói với T3:
“Ông nhớ con Cúc không? Có một dạo nó sống với thằng văn sĩ mặt ngựa ấy. Thằng Mai Thảo và con Cúc tưởng như ăn đời ở kiếp với nhau được. Ông lại sợ, giả thiết nếu ông cặp với Nguyệt, cũng giống như Mai Thảo ăn bám váy vợ chứ gì? Nhưng, như tôi nói với ông, ba bảy hai mươi mốt ngày, con Cúc phải bỏ nó. Bởi cái con Cúc cần, Mai Thảo không có; cái có của Mai Thảo, con Cúc không dùng vào việc gì được. Tôi mới thấy nó thấp thoáng với thằng trẻ cặp kè trên pít (piste) Tulipe.”
“Này, bà có đọc cuốn Mười Đêm Ngà Ngọc không? Khiêu khích dục vọng, phấn hưng làm tình, đá lâu đá hay, đá đến người tình nữ phải kêu lên, rên lên như mời gọi: nữa đi anh! Nhưng đó là văn chương dồn nén, tả hay về cái điều mình không thực hiện được. Nhưng văn sĩ là hót hay nên đánh lừa được chính mình và người đọc.”
Thủy kể tiếp:
“Tôi bảo nó, mày có thằng chồng sáng giá đấy. Cao ráo này, trí thức, có nụ cười rất say đắm, hớp hồn phái đẹp, ăn nói tài hoa, văn chương lừng lẫy, tiền của dồi dào, gia đình thuộc loại con ông cháu cha. Anh ruột từng làm Tỉnh trưởng... họ hàng với cả giáo sư triết lý Nguyễn Đăng Thục, mà thằng bạn dám xấc mé gọi là giáo sư triết lý C'est à dire... bởi ông nói tiếng Tây, ông thường lặp đi lặp lại câu này đến nhiều, rất nhiều lần ... Giáo sư triết lý bởi vì. Chồng mày viết văn hiện sinh, tả làm tình; tao đọc cũng sướng rên. Cũng phải cảm ơn chồng mày nhé. Tao đọc truyện của ổng, là bù đắp cho thằng chồng tao chưa lên đã xuống. Mày tốt phúc thật, Cúc ạ.”
“Thủy ơi, mày lầm rồi, mày không ngủ trong chăn tao, làm sao biết chăn có rận. Nó viết hay thật, nhưng nó cũng như chồng mày, chưa lên đã xuống, tao chán quá! Nên cặp với thằng có vòi xài được việc, chứ không phải chỉ để đi đái thôi.”
“Thằng bồ mới của mày bây giờ đã vừa sướng cho mày chưa Cúc?”
“Thằng này thì dư sướng cho tao. Nhưng nó chẳng có đức ( tiền/ tiếng lóng) bằng thằng chồng hờ cũ của tao.”
“Được cái này, mất cái kia.”
“Đúng vậy!” Cúc đáp. “Khi tao với nó lăn lóc trên giường, nó thấy tao rên hai chân quắp lấy nó. Thì, xong việc, tắm rửa, mặc quần áo đi ăn, nó vòi thêm tiền, Thủy ạ. Lắm khi tao bắt nó làm đúp cho bõ lúc thằng kia chưa lên đã xuội...
Tao có kinh nghiệm này chia xẻ với mày, Thủy. Mày đừng cặp bồ hay lấy bất cứ thằng viết văn nào. Đa số chúng nó cầm bút kia thì nhiều mực, văn hay chữ tốt – nhưng đến cái khoản viết bằng khí huyết, chán lắm! Nên ngay từ khi ấy, tao đã phải thuê thằng sơ cua, mỗi khi tao chưa thỏa mãn... Có một lần, nó thấy thằng kia đến làm tình với tao, nó ghen. Tao chửi thẳng, không có nó, tôi bỏ anh sớm hơn. Khi đêm khuya, lạnh như Dalat, tao cần hơi ấm từ nó lăn lộn trên giường với tao, làm tao sướng, thì nó không đáp ứng được. Rõ dởm, ghen cái nỗi gì?”
Cúc ôm lấy Thủy, dắt đi quanh quanh, tâm sự:
“Nói đi cũng phải nói lại, nó chịu khó kiếm ‘đức’ cho tao xài. Tiền viện trợ của Mẽo cho làm báo từ cậu Lê Kim đưa, nó ngắt ra đưa tao trước. Hoặc khi chưa có viện trợ, nó theo học đánh bê phé với Hoàng Thư (mày biết ông này không, sáng giá nhất là Trấn Thủ Lưu Đồn) rồi mướn phòng Hoàng Thư năm trăm một ngày đêm để đánh phé bê (đánh bịp đó Thủy) đem tiền về cho tao. Thương ghê cái mặt ngựa của thằng chồng cũ của tao.”
“Thế bây giờ mày bỏ ổng hở Cúc?”
“Chẳng bỏ cũng chẳng không. Khi tao cần sìn, tao lại ổng, tao ỏn ẻn, tao khen ổng viết Mười Đêm Ngà Ngọc hay hết xẩy. Không có tao, làm sao ổng đẻ ra văn chương mười đêm ngà ngọc được? Ông đưa tiền cho tao và lấy tay sờ soạng tùm lum, như bốc hốt ấy mà!”
“Mày dã man lắm Cúc ạ.”
“Mày thương làm gì bọn đàn ông. Chúng nó là lũ ngốc để mình xài, thằng nào pin mạnh cho tăng tốc; pin yếu, ném ra cửa sổ – làm bẩn bôi nhơ giang sơn bà.”
Rồi chẳng hiểu sao, Thủy lại giở giọng mối mang với T3:
“Này, tôi hỏi thật ông nhé. Pin ông có mạnh không – mạnh, tôi giới thiệu ông với con Cúc. Được không?”
“Bà thích tôi xài đồ đã dùng qua chắc?”
“Đồ bản địa Nhật chế cho dân chúng họ xài bảo đảm hàng tốt, bền, không hư lung tung. Đàn ông như ông lắm lúc cũng cần chứ – cần mà vớ loạng quạng – có ngày dính chấu. Con Cúc này máy tốt, bền, ông thử xem?”
“Sao bà lo lắng cho tôi quá vậy?”
“Bởi tôi nhớ bữa ông đi mua hộp sữa cho con tôi, đúng vào lúc kiệt quệ tài chính. Hơn nữa, con Cúc gặp tôi đi với ông, nó hỏi thằng cha nào cao ráo đi với mày, trông cũng tạm được. Giới thiệu đi, Thủy.”
“Cảm ơn bà. Hạ hồi phân giải. Sinh hoạt tình dục với tôi cũng như mọi người, đói ăn, khát uống – cần thì tìm nhau mà... Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là đối tượng cần và đủ. Có xài lại đồ của thằng văn sĩ Thải Mai cũng chẳng hại gì. Cũ người mới ta, với Thải Mai – nó đã dùng hiệu quả đâu mà coi là cũ...”
Cả ba nghe đến đây cùng cười, ra khỏi vũ trường. Đinh đẩy một vũ nữ người thon, nhỏ thó, trông được, qua phía T3:
“Chúc bạn ta vui vẻ... Em này trông cũng không xấu, nhưng mặt xấu chấu tốt, bạn ta nhớ vậy.”
Trời đêm Dalat bữa nay, nói chuyện với nhau, miệng thở ra khói.
2.
"H ôm nay ông khỏi phải xuống Phi Nôm. Để tụi tôi lo, cháu Đào mới đem máy khoan dò kim loại lên. Ông chú đưa cháu đi chơi thăm cảnh quan Dalat nhé.”
Đinh nói xong, nháy mắt, cười. Như không cần nói thêm, T3 đủ hiểu ý của Đinh giải thích. Từ lâu nay, Đinh có ý vun quén cho con gái mình thân thiết hơn với T3. Là con gái thứ hai của Đinh, dáng vóc Tây phương, học trường đầm, còn sắc vóc đủ làm cho người khác phái rung động, một khi hợp nhãn. Nụ cười tuyệt vời, âm thanh vang lanh lảnh khó quên, vừa trầm ấm lại nũng nịu. T3 biết Đào có một hải quân đại úy Mỹ đeo đuổi; chiếc máy dò kim loại kia là của anh chàng cung cấp cho bố vợ tương lai tìm vàng trên đỉnh núi Phi Nôm. Từ Sàigòn lên quốc lộ 20, cây số 22 cách Dalat, rẽ vào vườn đi thẳng lên đồi, lưng chừng mới xây một lán của những kẻ đào vàng. Trong lúc anh em trò chuyện, cơm nước, hay quây quần bên ly cà phê, ai cũng cho mình là bạn đồng nghiệp hậu duệ của nhà báo lớn Nguyễn Văn Vĩnh. Ông Vĩnh sang Lào đào vàng, để trả nợ. Vàng chưa tìm thấy, nợ chưa trả xong, thân xác đã vùi lấp nơi đất Lào heo hút rừng già, nước độc. Văn chương chữ nghĩa, giỏi thượng thừa như người đương thời phong tặng: Cụ Quỳnh cụ Vĩnh, thế nhưng... Nhưng có thằng ni a ni b, đánh vần trắc, bằng chưa thông, dám gọi hai cụ bằng thằng đã chết ai đâu? Nhưng cụ Vĩnh đã chết vì vàng. Nói như đại kịch tác gia cổ điển Anh: Vàng óng ánh, mi đã giết người, đổi trắng thay đen, quả không sai! Giỏi như Phạm Quỳnh, chỉ tốt nghiệp diplôme, nhưng viết tiếng Pháp cừ không kém văn gia, học giả mẫu quốc. T3 vừa trình bày với anh em có cả Đinh tham dự, ngồi kề bên Thủy:
“Nói có sách, mách có chứng. Bài diễn văn chót của cụ Thượng Phạm Quỳnh nói về Quan Ba Đỗ Hữu Vị, một vị anh hùng Pháp Việt, đọc ở Sàigòn, ngày 5 Novembre 1937, kèm theo bản dịch quốc văn của Nguyễn-Tiến-Lãng (tên nhà văn viết tiếng Pháp này ba chữ đều có gạch nối), cũng không thể không nói là tuyệt vời.”
“Cho dẫn chứng kèm theo tuyệt vời,” Thủy nói. “Chứ tuyệt vời không thôi chưa đủ là tuyệt vời.”
“Đúng,” T3 đáp. “Nói nôm na, văn chương nịnh cũng phải có đầu có cuối. Lại càng phải có sách có sử – mới không thuộc loại ngậm miệng ăn tiền, như bọn gia nô văn chương thời ông Ngô Đình Diệm. Phạm Quỳnh giới thiệu phi công Đỗ Hữu Vị thế này: ...Thưa các Ngài, có một câu văn của Maurice Barrès vẫn trở lại trong ký ức tôi một khi tôi nghĩ đến cuộc hội đàm đáng ghi nhớ, mà trong lúc đó ngài Đỗ Hữu Vị đối đáp với quan Toàn Quyền Van Valloenhoven, lại một vị anh hùng nữa, một vị anh hùng xứng đáng với những hiệp sĩ đời xưa, ngài Đỗ Hữu Vị lúc ấy đã nói một lời mà bây giờ sử sách ghi tạc: ‘Tôi vừa là người Pháp, vừa là người Nam, vậy tôi phải gánh vác gấp hai nghĩa vụ’. Ông Maurice Barrès nhân khi bàn luận về nhà thi sĩ José Maria de Hérédia đã nói rằng: ‘Nước Pháp có cái tài là khéo dùng chất vàng của ngoại quốc đem tới mà tạc thành ảnh tượng Pháp’...”(...)”
Đào đột ngột bước vào, nghe chuyện, liền góp ý:
”Cháu biết rồi, cô giáo xưa có giảng câu văn của Maurice Barrès, bây giờ cháu có thể đọc nguyên văn:
‘La France excelle à frapper des médailles avec de l'or étranger’...”
“Toàn nói chuyện dính líu với vàng và văn chương,” Đinh kết luận. “Bây giờ, mỗi người làm theo công việc của mình nhé.”
Nói xong Đinh ra xe, cùng với Thức, Phong và chiếc máy khoan dò kim loại.
Đào và T3 dắt nhau ra phố.
“Ta lên cà phê Tùng”, T3 rủ Đào.
Đào gật đầu, lùa tay khoác tay T3:
“Cháu cũng thấy thích không khí quán này. Nhất là trời lạnh, uống cà phê nóng và ngon, lại có chỗ ngồi thoải mái nghe nhạc thính phòng.”
Hai người bước vào quán, chủ gật đầu chào. Đào hỏi:
“Chú quen ổng?”
“Ừ.”
Rồi Đào chỉ cho T3, bức tranh treo trên tường phía bên trái, nhìn từ cửa ngoài vào.
“Bức tranh của Vị Ý đấy!”
“Chú quen ổng?”
“Quen, chính chú chở bức tranh này từ Sàigòn lên cho ông chủ quán Tùng. Năm ngoái hoa đào nở, Vị Ý triển lãm tranh ở nóc chợ Dalat, hoa đào nở rộ.”
“Sao triển lãm ở đây, tranh lại đem về Sàigòn; rồi chú lại đưa lên?”
“Bởi, ông chủ quán Tùng hỏi mua muộn. Ông thích bức tranh Nghệ sĩ đánh đàn, chưa kịp mua, ông Vị Ý đã đóng cửa và đem tranh trở lại Sàigòn. Nên chú lại mang lên. Bây giờ Nghệ sĩ đánh đàn có một chỗ dung thân.” “Chú nói như có vẻ mai mỉa, kể cả khoác cho bức tranh là tĩnh vật có linh hồn, biết trò chuyện về thân phận.” “Điều ấy cháu nói chứ không là chú. Như đôi giầy chú đang đi đây này. Nó giống như những đôi giầy khác đóng ở đất nước mình. Nhưng nó cũng có số phận. Đôi giầy của chú từ người bạn học cũ Trung học ở Hà Nội. Anh ta con nhà giầu, nhân dịp Việt Minh tấn công thu đông ở Nghĩa Lộ vào năm 1952, bố mẹ anh muốn cho yên ổn học hành, gửi con sang Pháp. Năm ngoái anh ta về gặp lại chú, tặng lại đôi giầy này, để nhớ nhau. Nên chú cứ lết nó như lết bạn theo, đến khi đế hỏng, lại đóng – cho đến bao giờ không đóng lại được nữa mới bỏ. Thế có phải nó có số phận không? Nó được thợ đóng giầy ở Paris bầy bán ở hiệu - một người Á châu sinh viên mua, đi vừa vặn. Rồi anh ta về thăm cha mẹ ở Việt Nam, anh ta gặp bạn cũ, tặng giầy nhớ nhau, rồi trở lại bên ấy với vợ. Cái khác là nó hiện có chủ, một anh chủ mới không khá giả và bây giờ nó đang trong chân của chú, để đưa một giai nhân thăm cảnh quan Dalat.”
“Chú cứ nói thế,” nàng nhón tay nhéo chàng.
“Không đúng sao, như hôm nay chú cháu mình ngồi bên nhau ở Tùng, nghe nhạc uống cà phê, như là có một sự sắp đặt của Đấng nào đó. Lại được ngắm bức tranh của họa sĩ Vị Ý. Riêng ông này cũng là một phong cách ẩn ức dồn nén.”
“Chú muốn nói đến Sigmund Freud trong tranh Vị Ý?”
“Phải, không những tác phẩm thôi đâu, cuộc đời riêng tư cũng thế.”
“Chú kể cho cháu nghe.”
Đào đóng cúc áo khoác manteau rồi dựa vào chú, mắt nhắm nghiền; chẳng coi chốn này là đâu, cứ như trong nhà hay ở phòng khách sạn Au sans souci vậy.
“Chú cho cháu dựa, chú kể cháu nghe cho đã điếu.”
Như một người kể chuyện cổ tích cho em bé thường ưa, T3 tỉ tê, giọng lúc trầm bổng, tùy theo sự sống một thời của họa sĩ gần như độc thân, chỉ biết tranh vẽ, chữ nghĩa, bạn bè, đôi khi một người được gọi là tình nhân thoáng qua.
T3 và Tâm (tên thật của Vị Ý, lúc này Tâm chưa là họa sĩ, mới chỉ là một công chức tùng sự tại bộ Thông tin) quen nhau thật tình cờ; như là có sắp đặt, lại của đấng Cao Sâu. Tâm là nhân viên của một Giám đốc một Nha sở thuộc Bộ Thông tin. Và T3 là tùy viên báo chí cho Tổng trưởng Bộ, là chiến hữu trong Việt Nam Phục Quốc Hội (Cao Đài), dầu chỉ là chiến hữu cầm bút viết báo Thời Đại, cơ quan của Hội. Và lúc đó, Tổng Thái là chủ bút. Tâm tuy là công chức, nhưng vóc dáng, lối ăn nói, đi đứng cũng khác thường. Ngậm ống vố to tổ bố, ăn nói có ngôn ngữ riêng, tuy không ra cái điều mình là nghệ sĩ; nhưng anh được anh chị em phê bình “ông này nghệ sĩ tợn”! Rồi cho đến khi sang làm tạp chí Sống, chủ nhiệm Ngô Trọng Hiếu, sau này cũng là Bộ trưởng, anh có tranh in trên báo, lại trình bày. Ngoài ra, anh vẽ những bức tranh thật lớn, hoặc nhỏ; nhưng phụ nữ Việt Nam bao giờ cũng có bộ ngực đồ sộ như Marilyn Monroe. Anh được tạp chí Thế Giới Tự Do của Sở Thông tin Huê Kỳ, in tranh, phỏng vấn. Danh tiếng bắt đầu nổi. Trả lời rất thực. Chẳng học vẽ ai. Thích là vẽ. Ai bảo là siêu thực, tùy; ai bảo tranh tượng trưng, tùy; hiện thực mới, cũng tùy... miễn là tranh có nét độc đáo và có công chúng mua tranh sưu tập. Thế thôi! Anh còn làm thơ. Thơ anh đăng trên tạp chí Sống – bài Tôi... lê thê dài như đường Nam Bắc, được chặt khúc in dần. Sau khi chủ nhiệm lên làm Bộ trưởng, anh lại được đưa về 272 Hiền Vương, Sàigòn 3 làm giám thị trông coi lớp huấn luyện cán bộ Công Dân Vụ. Anh và T3 hàng ngày gặp nhau, cùng ăn, nhất là cùng uống cà phê ở căng tin suốt ngày. Trong số khóa sinh lớp có một nữ thanh niên học giỏi, thủ khoa, chữ đẹp, làm thơ rất độc đáo ký Xuân Tâm. Vị Ý rất thích cô bé này, bởi “trước hết hai ta cùng Tâm”. Đời thường cho rằng con gái có tên Tâm rất khổ về đường tình duyên – còn trai tên Tâm cũng lao đao về đường đời lẫn tình ái. Vậy không không là có, Tâm Tâm cũng là có, lại có một cách huy hoàng mới phải.
T3 và Vị Ý thường hay đến nhà cô Tâm ở Ngã Tư Bình Hòa. Bố mất sớm, còn mẹ. Cô Tâm có hiếu với mẹ, tìm việc làm đỡ đần gia đình. Cô em gái của cô Tâm cũng lại làm thơ, như chị; nhưng lao vào thơ bằng cách cho ra bằng được một tác phẩm thơ in trong nhà xuất bản Nhân Chứng của Phổ Đức. T3 và Vị Ý đến đây cũng gặp rất nhiều thanh niên cùng tuổi với Tâm, mê nàng. Chẳng biết tại sao các cụ xưa lại cho rằng mê gái cao độ là “mê như điếu đổ”. Chỉ hiểu được rằng nước điếu lâu ngày đổ vào đâu là sát trùng khiếp đảm. Ra trường Tâm thuê nhà ở riêng gần cổng xe lửa số 6. Căn nhà nhỏ có hai phòng, phòng ngủ phía trong, phòng khách ngoài. Tuy chưa chồng, nhưng là “bà non” rất chững chạc và có truyền thống quý phái. Chính vì mê cô chị, nên Vị Ý (bây giờ không còn gọi Tâm nữa) buộc Diễm Phúc, cô em gái làm thơ ngồi hàng giờ của nhiều buổi, để anh vẽ tranh phác họa chân dung màu đầu tiên. T3 phải nói bức tranh màu đầu tiên, vì Vị Ý vẽ màu rất ít, đa số là màu đen, như Thon Nhỏ chẳng hạn hoặc Cô Bán Rượu in trên Thế Giới Tự Do. Lúc này Vị Ý về ở Nguyễn Tiểu La, Sàigòn 10, xóm Tàu. Nhà Vị Ý một căn nhà lá nằm sâu heo hút, trong hẻm tối om, chỉ có tranh và tranh. Anh ăn, ngủ, vẽ, tiếp bạn bè cũng vẫn chỉ có một buồng duy nhất. Vị Ý cũng thường lấy cớ mình có nhà, mời cô Tâm đến chơi, nhưng hình như chưa có lần nào cô Tâm tới. Lần ấy, họa sĩ rủ T3 đến nhà cô Tâm treo bức họa vẽ Diễm Phúc đã xong. Gặp cô Tâm ở nhà, lại trong phòng, Ý bảo T3:
“Ông còn thuốc lá không?”
“Còn, ông cần?”
“Không.”
“Hỏi làm gì?”
“Tôi muốn ông ra ngoài mua thuốc lá dự trữ... Ông để tôi ở đây một mình. Đi lâu càng tốt.”
T3 tự cười thầm với mình. Anh chàng này nổi cơn tình ái, có dám làm ẩu không đây? Vừa ra khỏi cửa, nghe thấy tiếng cô Tâm kêu:
“Ôi, anh Tê Ba, anh vào đây em nhờ một chút.”
T3 cứ như không nghe thấy. Cô Tâm vùng chạy theo T3, lời nói hụt hẫng:
“Anh Ý đòi hôn em giữa ban ngày ban mặt.”
“Thế cô không thích?”
“Ở hoàn cảnh này chưa thích được.”
Cô Tâm lôi T3 vào nhà, ngồi phòng khách, nói lảng:
“Cảm ơn hai anh đem tranh tới cho chúng em. Bức tranh Diễm Phúc đẹp, nhưng còn thiếu môi hôn nồng nàn, nên anhVị Ý định hôn em trừ phải không?”
T3 không ngờ cô Tâm nói không ngượng ngùng. Vị Ý nói lảng:
“Anh yêu em Tâm ạ, có anh Tê Ba đây biết. Anh ấy xui anh cứ hôn đại em rồi từ đó tình yêu sẽ tới theo...”
“Ngày đó cũng sẽ tới, nhưng chưa phải bây giờ...”
Cô Tâm nói một cách thật hồn nhiên, khiến Vị Ý đỡ ngượng ngùng và cũng rất hy vọng về lời nói chẳng biết tương lai gần hay xa sẽ đưa tới sự thực.
Hai người uống trà xong, ra về. T3 nói với Vị Ý:
“Ông liều hơn tôi nhiều.”
“Chả dám.”
“Thế trong trường thiên thơ Tôi của anh; rồi có đoạn nào tả nụ hôn hụt như bữa nay không?”
“Không biết.”
“Vậy tôi đọc cho ông nghe một đoạn thơ tôi viết về tác giả của Nụ Hôn hụt hẫng nhé.”
“... Người họa sĩ già sống bốn mươi lăm vất vưởng tên anh tô bất tử non sông tâm hồn Việt Nam vợ con chưa có, nhà một gian xẻ làm hai nửa ngoài vẽ tranh nửa phía sau làm ổ ngủ tôi gặp anh gần mười năm máu lửa hình hài buổi đầu ba mươi tuổi, tuổi hào hoa mười năm sau đem mắt môi tâm hồn trải rộng ra phên, vải, mực sơn hóa ra tàn tạ đường vào nhà anh, Nguyễn Tiểu La, Chợ Lớn nhà sơn màu đỏ quan tài, sức sống hiên ngang, dị biệt anh thường đập bàn nhìn tôi không hề than van bữa no đói dăm ba đồng bữa cơm nghệ sĩ không hẹn anh nhưng chúng tôi cùng gặp gỡ đỉnh đồi Dalat rừng thông như cây Giáng Sinh ngút ngàn mái tóc phong sương rừng lau thưa chắn gió đôi mắt sắc sảo hiện trên hai lần gò má hương thơm thuốc từ trong tẩu tỏa ra ngoài anh mang lại cho sinh hoạt đời mầu mắt mát da hoa hồng đào trên khung vải màu xám trộn pha sự nghiệp dài thường trải mấp mô trên đá tảng rêu xanh và lối dã thảo và buồn không thốt ra tôi chỉ thấy anh cười thoang thoảng trầm hùng bi ca xẻ tấm phản nằm vẽ sinh hoạt đời không còn tiền mua khung vải và màu sơn đỏ ứa lên nghẹn ngào như máu tứa hãy nhìn lên cao trời sáng đến sao băng rằng chúng ta không chỉ biết đời chát chúa vô ngần! Chúng tôi dắt tay nhau đi trên ngọn cây leo đồi thông...”
“Ông tả tôi đẹp, hào hoa quá đấy. Tôi xù xì, chỉ đáng so sánh với gốc thông già thôi.” “Nhưng ông có bằng lòng cho đôi nam nữ đến ngồi tâm sự dưới gốc thông đó không? Nhất là người nữ này thon nhỏ lại có bộ ngực ngồn ngộn như Núi Bà trên đỉnh Lâm Viên.” (lấy tay chỉ về dãy núi xa xa ...)
“Thế thì ... hiểu Vị Ý ( ) đến chân tơ kẽ tóc rồi.”
*
Đào nghe xong, thở dài:
“Vì vậy cháu ngắm bức tranh của họa sĩ, đôi cánh tay thật mạnh, đầy sức Hercule đánh đàn, để cố thu phục được người đẹp nào đó chưa cho họa sĩ nụ hôn có thực, chú ạ. Bữa nay cháu đề nghị với chú việc này nhé, chú bằng lòng không?”
“Chuyện gì cháu chưa nói, lại bắt chú phải đồng ý, như thế có quá đáng không?”
“Cháu có đọc một truyện ngắn Người Đàn Bà Nữ Sĩ Dalat của chú đăng trên báo. Bữa trước cháu hỏi ba cháu có biết người đàn bà nữ sĩ ấy không? Ba cháu lắc đầu, bảo cháu hỏi chú. Vậy bữa nay cho cháu cùng đi thăm bà, được không?”
“Biết người ta có tiếp không?”
“Sao lại không? Chú gọi điện thoại hỏi bạn chú giáo sư Bích, nhân vật trong truyện của chú, rồi cả ba cùng đến thăm bà. Chú chiều cháu đi.”
“Thôi thì , cũng đành ừ thôi ...
* * *
Thành phố cao nguyên, một sáng chủ nhật. Loại du khách như tôi, bao giờ cũng dậy muộn vì đêm qua còn mải miết trong những quán cà phê, hoặc phòng trà; hoặc sau đó, còn tự dấn thân trong gió lạnh đi quanh hồ Xuân Hương. Khi ra đến phố nhìn đồng hồ, đã quá giờ hẹn với người bạn làm nghề giáo sư tư thục. Anh tuy còn trẻ tuổi hơn tôi; nhưng bề ngoài già nua ấy, không quan tâm bằng nội tâm.
Anh là người của giờ giấc, đúng hẹn và mỗi khi phải sai hẹn với ai, anh lấy làm khổ tâm nhiều. Tôi hớt hải, vội vã, lòng hơi lo lắng. Hẳn anh chàng này đang trách mình rồi nhìn đồng hồ tay, mà cho rằng quả là nghệ sĩ có khác! Từ lâu, tôi có ý định đánh lảng thành kiến với bạn bè; về cái gọi là nghệ sĩ bất cần gì đời đó. Phần lợi chẳng là bao, nhưng hại không phải nhỏ. Khi tôi đến gặp anh, câu đầu tiên là xin lỗi anh ngay. Vì anh bạn tôi đã mặc xong quần áo từ bao giờ rồi. Tay anh đang cầm chiếc tăm xỉa răng, và anh đang soi gương chải mái tóc, có nếp đường ngôi thẳng như xa lộ.
Hình như anh chưa lấy làm hài lòng vẻ đẹp của mình. Đáng thương, thực ra, không những anh có mặc cảm xấu trai; đúng như mẫu mực thanh niên ngoài đời bây giờ; anh lại còn giống triết-gia-văn-sĩ Giăng-Pôn-Xạc (Jean-Paul Sartre ) lé kim. Nên tôi vẫn thường đùa cợt anh một cách thật tế nhị, mỗi khi nghe thấy bạn hữu khen cô gái đẹp; tôi chêm câu này vào “làm con gái không đẹp, uổng” và “con trai đâu cần đẹp trai, chỉ cần có tài, có tiền, có sức khỏe”. Dường như, Huy, tên anh bạn giáo sư của tôi, đoán được ý nghĩ của tôi là đang cười thầm anh làm đỏm; nên vội lên tiếng bào chữa một cách thật tế nhị.
Như bài giảng nghĩa Việt Văn của anh, dạy học trò đệ nhị vậy: “Tao vẫn thường nói rằng nói làm đàn bà không đẹp, uổng. Còn con trai chỉ cần có tài. Có phải vậy không? Nhưng tao vẫn hài lòng về tao, nên soi vóc dáng mình hoài hoài”. Tôi gật đầu và ngẫm nghĩ về anh chàng giáo sư này. Rất ít xưng hô tao, mày, trừ khi nào có hai đứa chúng tôi và khi đó cảm thấy rằng thân thiết lắm. Tôi cũng rất ưa xử thế lối ấy, tránh được suồng sã và đôi khi quá trớn. Huy hỏi tôi, bây giờ chỉ đi uống cà phê, tuyệt đối cấm ăn sáng. Tất nhiên đây là cách phạt tôi đến muộn, nên đành phải đồng ý. Trên đường đi đến quán cà phê, chợt anh dừng lại hỏi. Thật đột nhiên. Rằng, tôi có biết tiếng nữ sĩ Vi Khuê? Tôi gật đầu. Huy hẹn sẽ đưa tôi đến, sau khi ở quán cà phê ra. Và anh lại đe dọa trước. Đại để người ta có chồng, con. Thì ra, Huy cho tôi thuộc vào loại chuyên viên phá phách hạnh phúc không bằng? Tôi bảo anh thế, nhưng giọng đùa cợt. Thì phải trả mạng này cho nhau chứ gì? Huy lại phê bình, qua đời tình ái, bằng câu này: “Tôi biết tính bạn quá mà!” Vẫn chưa yên lòng, anh lại căn dặn tôi thêm: Nữ sĩ mới chỉ biết tôi qua văn phẩm, chứ đừng cho người ta thất vọng rằng tin đồn bê bối về đời sống là đúng. Tôi gật đầu trả lời anh: Cuộc đời sự nghiệp nữ sĩ nhà anh, ai còn lạ gì? Vì nàng đã có một thời gian là người tình của thi sĩ Thoại. Và tôi biết cả bài: “Trăng buồn của thiếu phụ đổi ngôi”, do chính nữ sĩ kia, làm từ động cơ thúc đẩy của Thoại. Huy nghe xong, lắc đầu. Không phải anh phục tài biết rõ đời tư văn nhân, thi sĩ của tôi; mà anh cho rằng nói dóc để ra cái điều với anh.
Tôi không đính chính hoặc cố tâm biện bạch bắt anh tin. Nhưng bấm bụng, sẽ làm cho anh ngạc nhiên từ một đến hai nhiều nhiều nữa. Một lát sau thôi, nghĩa là hai chúng tôi bước ra khỏi quán cà phê tới nhà vợ chồng nữ sĩ. Với điều kiện giáp mặt được nữ sĩ.
Chiếc tắc xi đưa chúng tôi xuống ven hồ Dalat rồi tiến thẳng về lối Sàigòn. Người tài xế hỏi Huy đi đâu? Huy vội vã trả lời: “Nhà ông Phạm L. nguyên Phó tỉnh”. Anh lại xác định thêm, các bác tài ở Dalat này, có ai lại không biết biệt thự Ngọc Nga đâu? Nhưng bác tài này lắc đầu, trả lời một cách ngang ngược, trái lại ý của khách; bác không cần biết, ai biết bác cũng không cần đếm xỉa tới làm chi? Tôi hài lòng về sự ngang bướng hợp lý này của bác, nhưng không nói ra. Anh bạn tôi bắt đầu nhún nhường, giải thích về ông Phó tỉnh. Nào là trước kia ông là người danh tiếng ở đây, từ khi giữ chức Phó tỉnh, ai ai cũng khen ông là người tốt.
Bác tài trả lời biết sơ sơ thì cũng có biết; nhưng riêng bác lại không cần biết. Thế là Huy đành phải chỉ đường lối cho bác tài chạy xe. Quay sang phía tôi, Huy nói về lai lịch của gia đình. Như để cho bác tài biết thêm: một tiểu sử danh tiếng của một gia đình danh tiếng; tại sao bác là tài xế mà lại không biết? Nào là bà cụ ngoại, người thay mặt ông thân sinh ra chồng của nữ sĩ Vi Kh.. Bà là người giữ gìn coi sóc tư thất cho con rể. Đại để, bà là bạn thân với gia đình nhà văn sĩ lãnh tụ Tự Lực Văn Đoàn; một người đàn bà có quá trình tranh đấu cho nghĩa lý đời sống; bà từng là người khai thác đầu tiên mỏ than Nông Sơn bây giờ. Đến nay, bà ở đây, đất rộng; nên lập điện thờ cúng Phật mà cũng bị dỡ bỏ. Đó là vào thời kỳ Phật giáo đang bị nhà cầm quyền thời xưa làm lôi thôi, một Đức Cha, anh ruột của Tổng Thống đã ra lệnh cho dỡ điện; vì nó quá gần, so với nhà thờ mới thành lập. Bà từng lên án, nguyền rủa họ dùng thế lực đàn áp. Nay chế độ cũ đã nhào; bà cũng chẳng còn ý định lập điện trở lại và oán trách làm gì? Vì một khi họ không còn sống nữa lại hết uy quyền. Huy dẫn giải thêm; vì vậy bà rất quý anh em văn nghệ. Họ khổ nhiều, sung sướng ít; cứ trông cái gương của văn sĩ Nhất Linh thì rõ.
Chị Nhất Linh lam lũ, tần tảo buôn bán nuôi con, nuôi chồng tự do đeo đuổi lý tưởng, nguyện vọng ấp ủ. Huy không những khen ngợi những người của tư thất này đẹp ở tâm hồn; mà cả tư tưởng lẫn đời sống của họ. Rồi tôi sẽ thấy nghiệm qua lời nói của anh. Tôi gật đầu song bao giờ cũng dè dặt, bất cứ được nghe một câu chuyện gì chắc nịch đúng hay nghe ai giới thiệu qua môi miệng là có lòng với văn nghệ. Kinh nghiệm sống không cho phép tôi dễ tin một khi chính tôi chưa được tiếp xúc, giảo nghiệm qua nhiều lần. Đường đi xuống đèo, tư thất ấy nằm nghiêng trên sườn đồi thông. Kế bên một khách sạn nổi tiếng của Dalat: La Savoisienne, một ngày ngàn rưởi, giá cả bây giờ thì đắt đỏ thế, cho một ngày: ăn theo lối công tôn, hoàng tử. Tôi nhớ, bởi con đường này lên khách sạn đó. Tắc xi trở lại thành phố; khi hai chúng tôi nhìn thấy biệt thự Ngọc Nga có hai cánh cổng mở rộng đón vào.
Bác tài cầm ba chục đồng trên tay, vẫn còn như không hài lòng với ông khách. Tôi nghĩ không phải vì tiền; có lẽ vì sự thất thố của anh bạn tôi khi nãy. Một bà cụ già tóc trắng, ăn vận theo lối đẹp của tiền chiến; ra tiếp đón chúng tôi. Anh Huy giới thiệu tôi là văn sĩ. Bà cụ rất niềm nở. Câu chuyện đầu tiên, bà cụ nói về địa điểm này. Bao nhiêu là Mỹ đến thuê, nhưng bà cụ khước từ. Lại phải nấu nước cho họ uống, đưa họ đi xem nhà, vườn tược. Có những anh thông ngôn người Việt làm cho Mỹ rất hãnh diện về vai trò làm thông ngôn. Nào anh ta hoạnh hoẹ hỏi; sao bà cụ có nhà rộng thế lại không cho thuê, chủ nhà là ai, họ có thể tiếp xúc thẳng với chủ được không? Bà cụ nổi giận, nói độp vào mặt, chủ là tôi và tôi không cho thuê, mặc dầu nhà rộng. Bây giờ tôi bận, xin lỗi các ông, tôi không thể tiếp chuyện. Tôi nghe đến đây song tầm mắt vẫn nhìn ra ngoài vườn. Sườn đồi thoai thoải, hoa đào mơn mởn nở. Năm nay hoa đào hai lần nở, âu cũng là điềm lạ; Dalat từ trước đến nay chưa từng thấy!
Đẹp nhất là đồi thông có cỏ, dưới chân thông là những mảnh lá khô trải đầy. Xác lá trơn nhoài, lá thông khô mướt cánh làm trượt chân khách nhàn du. Chẳng khác trải thảm vậy. Xin phép bà cụ ra vườn ngắm hoa. Tôi đi tìm một hình ảnh dĩ vãng, chôn vùi. Hôm nay tôi lang thang nơi này; trước kia là ai, sau này đến kẻ nào? Ấy, cứ hay nghĩ vẩn vơ, như lần nào đi bên cạnh người yêu, nàng thề thốt rằng hai người sống bên nhau, tôi đừng bao giờ phụ nàng.
Rồi chính nàng lại phụ bạc, đến lúc này thì tôi đâu có trách nàng! Căn nhà này đã lâu đời lắm. Lối cất nhà giống như nông trại của những người chủ là người Ý vào thế kỷ trước. Trước ông chủ Phạm L. này; tôi đoán thế, họ giàu có; còn là một nghệ sĩ rất nhiều cảm quan sành nghệ thuật.
Trong nhà, phòng dưới rất rộng chiếm hết chỗ, một cầu thang bắc lên lầu, đi quanh một góc phòng. Ở nhà dưới, nhìn xuống đường dưới kia, có thể kiểm soát được cả một khúc đường quanh co. Gần hơn, hoa nở; xa hơn nữa, đường trần gian đang tiếp đón bước chân của thế tục lăn vào. Cả những ngày mù sương rét thật đậm, nhóm lửa, đốt củi và khoác áo đi xuống chân đồi để nhìn thấy ảo ảnh chập chờn trên khúc quanh kia. Nhưng bây giờ người chủ này, tôi nghĩ thế, có một cuộc đời gần hết cống hiến cho luật hành chính mai rùa; họ còn đâu có chữ nhàn để thụ hưởng cảm quan kia! Bên Tàu thời xưa có những bậc phong lưu quân tử, làm quan, nhưng giàu cảm quan nghệ sĩ, chứ thời này làm gì có cảnh từ quan về sống ẩn tích, mai danh.
Họ chờ công danh ghế ngồi, như có một bức tranh trào phúng nào đó đã vẽ, cảnh chờ như ở nhà vệ sinh công cộng vậy. Đang mải mê với muôn vàn ý nghĩ, không đẹp gì cho chủ nhân căn nhà này bây giờ; mà thực ra thì tôi chưa biết họ lần nào. Thì nghe tiếng Huy gọi. Tôi trở lên, và chắc rằng giờ này Vi Khuê tới. Tôi nhớ ra lúc gặp bà cụ là người miền Bắc và sao Vi Khuê lại là người Huế?
Thì ra, người cháu ngoại của cụ đã bị câu “thấy cô gái Huế bỏ đi chẳng đành” tóm mất hồn vía! Từ tầm mắt nhìn lên, xa xa hơn; thấy chiếc xe hơi Peugeot trắng, loại décapotable hai chỗ ngồi, đậu trước lối ra vào. Nhưng một đôi vợ chồng son, thì hẳn chiều chiều cảnh hai người đưa nhau ra xe, vụt lướt trên khắp nẻo đường thơ mộng, rừng thông, hồ Than Thở, khúc quanh mất hút sau hồ Xuân Hương, vẫn hai kẻ dìu nhau lên Sân Cù, sóng đôi từng bước trong Công viên Bích Câu, thơ và mộng biết chừng nào! Nhưng thêm dăm ba đứa con chạy đùa nghịch ngợm, vây quanh lấy bố mẹ cảnh thơ mộng kia không còn nữa, lại trở thành địa ngục trong chiếc xe hơi chật chội.
Anh Huy giới thiệu tôi với đôi vợ chồng họ. Người đàn ông có một vóc dáng chồng làm đỏm trí thức; nhận diện sâu hơn sẽ thấy trên khuôn mặt đôi chút thông minh sáng sủa kia, chỉ là bề ngoài che cho một nội dung rỗng. Nhưng chàng rất bặt thiệp, thứ bặt thiệp của con nhà giàu; thuở nhỏ cha mẹ cho ăn học, thì lêu lổng chơi bời, lớn lên một chút tỉnh ngộ biết sửa sang cho mình có diện mạo trí thức đánh bóng!
Vợ mảnh khảnh, bốn con rồi, nhưng rất chịu khó giữ sắc đẹp; nếu không có đàn con kia, tôi chỉ có thể đoán chừng một con là cùng với cảm quan khám phá bề ngoài; khuôn mặt khá xinh, nhiều đam mê ngầm, bặt thiệp và da bánh mật. Ôi thôi da bánh mật, thứ đàn bà đa tình lại thêm vào mác nữ sĩ, tác giả những bài thơ chan chứa hiện sinh! Ôi thôi, lại hai lần ôi thôi, lại phải lấy một anh chồng không nghệ sĩ tính! Một giáo sư không giờ; anh chàng chỉ trông coi trường học như một Giám đốc Hiệu trưởng.
Một thứ có làm chủ báo, thì anh ta thuộc vào loại không biết viết bài; nhưng có tiền và thế lực để làm chủ nhiệm xuất vốn. Song nghề báo còn có thể gián tiếp bịp độc giả được, bằng cách mượn người viết bài, dưới ký tên mình. Và chịu khó thuê thư ký đánh máy cho hai tuồng chữ trở thành duy nhất; không ai còn biết bút tự nào là của ai, của mình là được!
Còn giáo sư Giám đốc, khó mà vào lớp học khi không có khả năng dạy học trò. Tôi luống cuống khi xiết tay người chồng, nghe chàng ta khen tặng tôi: “Nghe tiếng anh từ lâu, hôm nay được hân hạnh gặp mặt”.
Tôi cũng muốn nịnh anh chàng một câu tương tự; nhưng tiếc thay, anh không là nhà báo, dầu chỉ một chữ biết ký tên, hay là tác giả một bài báo mua thôi, cũng sẽ đem lại cho chàng một câu đền đáp tương tự...
Tôi đành chịu nhận lời khen miễn cưỡng của anh, có đi, không có lại. Quay sang phía người vợ, nàng nghiêng đầu như con chim gi đá, của lần đầu đứng bên chồng ngoài tổ ân ái mới xây xong. Nàng nói với tôi, câu khen tặng nồng nàn hơn chồng. Tuy rằng cũng là được biết anh từ lâu, nay mới gặp mặt. Nhưng vì có căn là nữ sĩ; nên không ngô nghê, sáo mép láo khoét như anh chồng.
Với chồng nàng, tôi dám chắc, một tên của tôi thôi, anh chàng cũng mới chỉ nghe lần đầu đây thôi; sao lại nói khen nhau là biết tiếng từ lâu? Với vợ, tôi nói ngay rằng có đọc nhiều thơ của nàng. Như loạt bài trong Mộng tưởng và cuộc đời. Nàng ngạc nhiên, hỏi dồn dập tôi, nàng có đăng nhiều thơ đâu mà tôi được đọc? Ngó sang Huy, chắc bạn tôi đang lo thay cho tôi bị hố với nữ sĩ. Tôi thấy gương mặt anh phản ánh sự lo lắng. Mà thực ra, tôi đang lâm vào thế bí như Huy nghĩ. Song đến câu trình bày là nhờ thi sĩ Thoại cho mượn bản thảo. Nàng hạ giọng, tiếng à như đã biết rồi; nhưng nàng cũng muốn đánh tan sự nghi kỵ của chồng từ bao lâu nay. Tôi cố ý như vậy, vì có lần tôi bảo Thoại, khi nghe xong, anh bảo bài thơ Trăng buồn của thiếu phụ đổi ngôi là sự thất tình lớn lao với Vi Khuê, tình con cô cậu ruột. Bây giờ Thoại đã chết, anh nổi danh, sau khi hết được làm người. Vi Khuê hơi thất sắc khi trả lời tôi: “Vâng, chỉ có anh Thoại là có thơ tôi. Anh với Thoại là bạn, tôi có biết tin này. Giữa tôi và anh Thoại, ngoài cương vị anh họ, chúng tôi còn là bạn thân. Nhưng chúng tôi sống với nhau qua tình bạn nhiều hơn”. Người chồng im lặng, có sự ghen ngầm điều ấy; tôi đoán được, từ khi sắp nói. Tôi định tâm sẽ đem chuyện tình của văn sĩ Hoa Kỳ, Edgar Poe ra, làm thí dụ; chỉ cần kể mối tình người em họ, hẳn sẽ làm khổ Vi Khuê, và càng nhiều hơn nữa là anh chồng. Cũng phải nói rằng, khi ấy, tôi cũng có một sự trả thù. Những tên vô loại của cuộc đời, chúng dùng tiền để cướp những tình nhân của nghệ sĩ – chúng đâu có cần tình yêu; chúng chỉ đem tiền ra mua, chỉ cần chúng đánh trúng một điểm tâm lý này thôi, đủ làm cho văn nghệ sĩ thua cuộc rồi.
Là: “Em ơi! Đồng tiền tuy bẩn thỉu thật, nhưng không có nó cuộc đời sẽ bị trở ngại. Em yêu chàng thi sĩ kia, được lắm! Nhưng em có thể mài cái tài sản của thi nhân ấy để nuôi hai đứa không? Tốt hơn hết, tuy anh không xứng đáng như thi nhân, hay đúng hơn, không được may mắn em ban cho tình yêu kia, nhưng anh có tiền đủ bảo đảm đời chúng ta thật dư dả! Em vẫn cứ yêu thi sĩ, nhưng cho phép anh được cưới em, anh hứa không bao giờ ghen, anh hoàn toàn tôn trọng đời sống tinh thần trầm lặng của em. Em không thấy ư? Đời nghệ sĩ là yêu muôn vẻ đẹp, nay yêu em, rồi mai yêu người khác, có bao giờ yêu độc nhất một người nào? Tình yêu của nghệ sĩ là tình yêu vạn vật, của tất cả muôn vẻ, muôn màu. Em là thi nhân, chắc em đã và không quên Hồ Dzếnh, từng bày tỏ tâm trạng chung của họ: ‘Tình chỉ đẹp khi còn dang dở. Đời hết vui khi vẹn câu thề.’ Em cho phép anh được cùng em chung sống chuỗi ngày dài trong cuộc đời, khi em hết còn mang hình bóng nghệ sĩ hay là trái lại cũng vậy”.
Tôi không hiểu chồng của nàng, có thể nói được giọng văn đại để như vậy không. Nhưng chắc chắn phải có một tài riêng để chiếm người đàn bà nữ sĩ kia, làm sở hữu riêng tư của mình. Trong câu nói không chút gì giấu diếm, Vi Khuê nhấn mạnh: với Thoại, chúng tôi sống bằng tình bạn nhiều hơn. Hẳn mười năm trời đằng đẵng, nhiều đau đớn ngầm cho người đàn bà! Đúng hơn, cho cả hai. Một nghệ sĩ, lấy một người không có tâm hồn nghệ sĩ, sẽ làm khổ mình khổ kẻ khác, lẽ tất nhiên không thể nào tránh được! Tôi để ý Huy, nhưng anh lảng tránh từ bao giờ!
Huy cùng dạy một trường; và chồng Vi Khuê là người bỏ tiền mở trường. Hay rõ hơn, Huy được thuê dạy, họ trả lương; làm sao tránh được phiền hà cho anh, nếu chẳng may có chuyện gì xảy ra; dầu sao tôi cũng là người do Huy đưa đến. Linh cảm tôi dường như cho biết trước rằng Huy đang lúng túng trước câu hỏi khêu mào, về chuyện tình của Thoại và Vi Khuê. Bây giờ anh trở vào phòng khách, ngồi chung với chúng tôi.
Người chồng bày tỏ thái độ bực dọc, ghen tài với dĩ vãng vợ mình bằng cách đuổi lũ con nghịch ngợm, bắn súng pàng pàng bằng pháo, làm nhức óc người lớn ra chỗ khác. Bà cụ ngoại đang thao thao bất tuyệt về tài giữ báo chí của bà. Nhân đến chỗ nhà văn, thơ, nên hãnh diện về sự tô điểm cho văn nghiệp mình và cả cho sự nghiệp văn chương nước nhà được thêm phần rạng rỡ. Bà cụ đưa cho xem một tờ báo hàng ngày, trong đó có bức tranh hí họa trào phúng, nội dung, người cha đang ăn cơm, mà tay không rời tờ báo đọc. Khi nhìn lên đồng hồ, thấy gần một giờ; đến giờ đi làm bảo con cất đi, chiều ở sở về nuốt tiếp. Huy nói ngay rằng, ông công chức nào không biết, chứ với Vi Khuê (nàng cũng còn là một công chức) đâu có tệ hại như vậy! Vì đã có ông (quay sang phía người chồng) đưa tới sở, trước giờ làm việc vào buổi chiều. Câu chuyện khôi hài này, thực ra nếu không có sự hiện diện của tôi; thì câu chuyện khơi mào về ghen với dĩ vãng của vợ, khiến người chồng khó chịu ra mặt, thì đâu đến nỗi nào!
Với tôi, tôi không muốn biết như vậy, và sự cố ý này vẫn hiểu bằng thái độ, của điềm nhiên nói chuyện với vợ anh, nhưng tỏ ra rất bặt thiệp để người chồng muốn bắt lỗi, mà không sao tạo được cơ hội, trừ sự cố ý gây hấn thì không kể làm gì. Tôi nhắc lại chuyện Thoại và những truyện ái tình đau đớn, cả đến bạn là những tên văn nghệ Mít, Xoài; gọi là cố kết với Thoại còn sống đói khổ nghiện ngập, chúng nó có tiền lại lắc đầu không trợ cấp cho bạn. Khi Thoại chết, chúng xây lưng lại với nhau nhìn mặt Thoại. Bằng cách góp tiền làm cỗ tế ruồi khóc lóc thảm thiết trên tạp chí Sáng Tạo. Tôi lên án sự vô liêm sỉ như loài vật cũng không làm như vậy! Người vợ ghen, ăn nói cũng rất kín đáo; hẳn còn làm khổ nhiều kẻ thèm muốn; hơn nữa tôi cũng có ác ý: khêu lại cái quá vãng thật diễm lệ, hoặc nói đến cái tương lai, bất cứ thứ tương lai gì; miễn là làm chán nản hiện tại. Vì tôi hiểu rõ rằng, không một người đàn bà Huế nào chịu yên phận với hiện tại, bất cứ với hiện tại nào, và cho bất cứ loại người nào: sang hèn, giàu, nghèo. Mỗi một kẻ, tùy theo hoàn cảnh mà khơi lên cho họ; đó là nghệ thuật làm cho họ chán chường hiện tại đang sống. Với tôi, thì cố ý là hành hạ người chồng. Anh chàng nghệ sĩ giả hiệu này, hắn càng thấm đòn hơn; khi nhìn vợ suy ngẫm. Người được gọi là vợ mình kia, thật ra mờ ảo quá; có khi nghĩ ra lại không là vợ mình có thực. Có trong tay thực tại mà dường như mất rồi. Mang tiếng hình hài vợ mình, song lại biết chắc tư tưởng, tâm hồn vợ không còn tùy thuộc vào mình nữa; đau đớn kia sẽ hành hạ thân xác nhiều lần hơn. Tôi lại hay bi thảm hóa thế thôi để nhìn anh chồng, chắc gì hắn khó mà nghĩ được vậy.
Tôi nhìn đồng hồ, mười một giờ hơn. Tôi có cái hẹn với một gia đình cô em; tôi chớm để ý đến cô ta, xưa nay với ai cũng thế, nhất là với giai cấp bình dân lao động, tôi lại càng tỏ ra mình giữ đúng lời hứa. Trưa nay, mười hai giờ, họ mời ăn cơm. Hơn nữa, tôi tưởng làm đau đớn cho anh chồng như thế cũng tạm đủ. Một thứ tình cảm trả thù cho nghệ sĩ, bị kẻ bình thường dùng tiền cướp người yêu. Tôi lại không ngờ mình có thể làm như tha thiết với Vi Khuê, điều này quả khó khăn! Nhất là đối với đàn bà, mà lại là thứ đàn bà nghệ sĩ.
Phải cần đến người đóng kịch, đóng thật nổi, mới làm cho kẻ ngồi nghe tin mình là chân thành. Còn khó hơn nữa, làm sao mà đạt tới được, khi mà có sự hiện diện của người chồng. Tôi xin phép bà cụ, hai vợ chồng, anh Huy có hẹn, nên không thể cùng ở lại dùng bữa trưa. Nhưng không một ai cho tôi từ chối cả. Nhất là người chồng vô cùng khôn khéo tiểu xảo kia; tôi biết chắc chắn rằng trong lòng chàng là muốn tống khứ tôi đi cho rảnh mắt. Tôi biết thế, đau đớn cho chàng, tôi đã biết rõ thế. Tôi nhìn đồng hồ; 11 giờ 30. Có trở về cũng chẳng sao kịp, tại chỗ này không dễ dàng gì có xe. Có khi phải chờ hàng tiếng đồng hồ, chờ xe của Sàigòn lên, nếu xe còn chỗ trống. Thường ra các xe qua đây đã đầy hành khách. Nên tôi đành ở lại. Nhưng tôi nói thẳng chỉ dùng bữa một cách qua loa thôi. Tôi thú thật, còn phải để bụng trở về chỗ hẹn trước. Cả gia đình này đồng ý với tôi như thế. Khi sắp chỗ ngồi vào bàn ăn, người chồng ngồi đối diện với tôi. Còn Vi Khuê, nàng ngồi vào đầu bàn. Bên kia, anh chồng thấy vậy, lần này anh ta quạu quọ, nói thẳng điều này trước mặt mọi người:
“Mình ngồi đằng này chứ, sao lại ra ngồi tận đấy!”
Tôi nhìn sang Huy, nhưng Huy đã hiểu rồi. Một sự xung đột bắt đầu tỏ lộ công khai. Vi Khuê phải chiều theo sở thích chồng. Tuy khó chịu, nhưng nàng yên lặng, sau bắt đầu nói chuyện nhiều với tôi:
“Quyển Tuyển Truyện Thế Phong của anh mới in đẹp đấy chứ! Trông giống sách Pháp lắm. Nhưng, có một điều sẽ khó bán. Trình bày khổ sách, cũng như lối viết; đòi hỏi độc giả thuộc loại riêng.”
Tôi im lặng. Người chồng cũng khen chung với vợ qua ý kiến trên. Tất nhiên, tôi không trả lời anh chồng, mà chỉ quay sang phía người vợ:
“Thực ra, thưa chị, đó là một người bạn yêu tôi bỏ vốn. Anh ta cũng là văn sĩ, nên vui lòng in một tác phẩm theo ý tôi thích. Thương mại, buôn bán tính sau.”
“Anh viết truyện Người Đàn Bà Không Tóc cũng lạ!”
Tôi bắt đầu lúng túng, vì lẽ cuốn truyện Vi Khuê vừa khen thuộc loại tả chân hiện thực, nói về một đàn bà làm điếm, yêu lại chung tình. Xã hội không cho phép chị ta làm lại cuộc đời. Tôi cố ý lên án xã hội dân chủ no ấm giả tạo, của chế độ Ngô tổng thống. Sau đó, Vi Khuê hỏi tôi về nhà báo, tên Duy Khôi. Riêng với tên bạn này thì bất cứ đàn bà con gái nào mà đi với anh ta rồi (mà nào anh ta có tha cho ai đâu) ít nhất cũng phải chịu trận một cái hôn nhẹ. Rồi chống đối hay là giữ thủy chung với chồng con, hãy giữ sau. Tôi biết chuyện về thằng bạn thân này; người yêu của nó là nạn nhân của Ria Sâu Róm.(*) Anh ta là ký giả của nhiều tờ báo có tiếng tại thủ đô. Anh sắp cưới vợ. Một thiếu nữ miền Nam, ngoan và đẹp.
-------
(*) - Duy Sinh [ Nguyễn Đức Phúc Khôi 1936- chết_] , trưởng nam nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh & Lê Thị Phúc ).
Duy Khôi quen khá thân với bạn tôi. Một hôm, Duy Khôi đưa xe hơi đến nhà, nói với người vợ chưa cưới của ký giả rằng: Trần Quân ở tòa báo bị xỉu, bất tỉnh. Nàng vội lật đật ra đi theo Duy Khôi đến bệnh viện cấp cứu. Khi lên xe hơi, Duy Khôi lại đưa nàng ra ngoại ô, thay vì vào bệnh viện.
Tôi được nghe kể đến đây, không hỏi thêm chuyện gì xảy ra sau đó. Nhưng chỉ biết nàng khóc lóc vô kể, sau đó Trần Quân hủy đám cưới. Cũng chẳng ai thèm trách Ria Sâu Róm một câu nào! Đến nay anh chưa lấy vợ. Hơn ba mươi. Trần Quân nể bạn một phần, phần nữa là nể danh nhà văn lão thành là thân phụ của Duy. Tôi chắc thế. Anh bạn ký giả của tôi rất kính mến cha của Duy Khôi, chủ soái Hàn Thuyên.
Tôi ăn uống vội vã xin rút lui. Tôi bảo Huy ở lại với gia đình này rồi về sau. Tôi biết chắc chắn rằng khi tôi ra đi rồi, Vi Kh. sẽ trở thành nạn nhân của chồng. Nhưng Huy không ở lại mà cùng theo tôi ra phố.
Người vợ bảo chồng tiễn khách lên chợ. Chúng tôi lấy cớ đi xe hàng tiện hơn. Tôi rất cám ơn về sự quý hóa của anh đối với chúng tôi, như để che mắt sự nút rạn, tạo nhất trí gia đạo trong gia đình anh. Anh chàng đeo kính trắng, chính nhìn rất thiển cận. Và khi anh chồng hỏi tôi địa chỉ tôi ở lại trên Cao Nguyên, tôi nghĩ anh chàng này định áp dụng thủ đoạn thường có trong tay, dùng bạo lực cao bồi khử trừ phần tử nào nghịch với mình chăng? Như anh chàng vẫn áp dụng với trường lớp tranh giành học sinh với trường khác. Với tôi cũng thế, cólẽ để trả thù cho bõ ngày hôm nay chàng bị sao quả tạ chiếu. Tôi cũng chẳng ngại gì, mà giấu diếm chàng. Tôi trả lời ngay:
“Rằng nếu được anh chị thăm, quả là hân hạnh cho tôi! Nếu người nhà nói tôi đi vắng, xin anh chị cứ bước thẳng vào nhà. Đó là dấu hiệu cho người nhà biết khách thân thuộc. Bởi có một lần, bọn cao bồi đến nhà tôi ở Dalat hành hung tôi chỉ vì đêm trước, tôi mời cô vũ nữ đẹp nhất đi chơi quanh hồ. Tôi đành chịu ra đòn. Nên từ đó người nhà bạn tôi sợ cảnh máu me tái diễn; nhớ đến khi ai hỏi tôi, bất cứ ai, họ nói đại tôi đi vắng. Và khách quen thì cứ vào nhà. Vì lần tôi bị máu me, những ba anh cao bồi đánh hội chợ, một mình tôi chống chọi không nổi. Cuối cùng tôi bị thương.”
Đi ra ngoài lộ, tôi đã hỏi ngay Huy, rằng anh có sợ bị thất nghiệp không? Anh ngạc nhiên, trả lời chậm rãi là không. Cứ làm như anh sống nhờ vào trường ấy? Nếu không, anh ta chết đói sao? Tôi giải thích với anh, sở dĩ tôi biết hậu họa đến nên phải hỏi anh trước. Trong trường hợp cần thiết, tôi có bổn phận báo anh em sửa soạn giờ trước cho anh dạy ở Sàigòn. Người chồng nữ sĩ được hân hạnh mang danh của vợ kia là “anh Vi Khuê” (tôi vẫn thường ám chỉ cách gọi danh vợ, cho người chồng của nữ sĩ nào không danh tiếng tài ba bằng vợ, bằng cách thêm chữ “Anh” lên trên người vợ) thế nào cũng có một sự cãi vã, hành hạ nhau. Kẻ chịu nhiều hậu lụy lúc này, chính là tôi. Song tôi không còn ở lại Cao Nguyên bao lâu, nên Huy phải nhận hậu quả thay. Huy vẫn coi thường chuyện này. Rồi anh tự cho rằng người chồng nữ sĩ kia chẳng đổ tội cho anh được! Tôi bảo anh, hãy chờ một thời gian nữa không lâu rồi anh hãy trả lời tôi dứt khoát hơn. Bổn phận tôi phải báo tin cho anh biết, chuyện sẽ xảy đến. Tôi im lặng rồi chúng tôi chia tay nhau.
Hôm sau, bà cụ ngoại đã hớt hải lên phố chợ Dalat kể lại tất chuyện cãi nhau của đôi vợ chồng, sau khi chúng tôi ra về. Nguyên nhân của chuyện tình ngày cũ. Người vợ bé nhỏ kia, nói với ông chồng rằng: “Mi bóc lột đời tau mười năm. Nay tau không còn gì để không nói cho mi rõ.” Người chồng bảo giống nghệ sĩ là giống đa tình. Chưa thấy trai mà cứ như rước nó vào nhà. Từ nay cấm không cho thằng nào là nghệ sĩ gặp vợ nữa. Hành văn một cách tục tằn là như vậy, nên bà cụ phải lên báo tin cho Huy rõ. Nếu chị ta có tìm nhà văn gì, bảo ông ta đừng đi, đừng đến làm gì, vì chuyện chẳng lành cho họ. Huy bảo tôi vậy. Lại nhận một cách gián tiếp rằng người chồng nữ sĩ có trách Huy tại sao cho tôi gặp vợ chàng? Mà đúng lý ra, chỉ nên gặp một mình người chồng thôi. Vợ anh nhiều đức tính bốc đồng. Không nói ra thì Huy đã rõ rồi.
Tôi mỉm cười trả lời Huy, rằng tôi đã gọi điện thoại lại thăm Vi Khuê chiều nay tại nhà hàng ca nhạc. Trước hết, tôi xin lỗi sự có mặt của tôi làm rộn gia đình nàng. Và tôi cũng sẽ lại thăm chồng nàng. Lời xin lỗi tương tự. Tôi rất ân hận, không ngờ tôi là một thứ cản trở, làm gia đình cãi nhau.
Huy nghe đến đây, nhẩy lên như choi choi. Tôi cười, không đáp lời anh là hỏi tôi “thật hay đùa?” Tôi bảo Huy, anh cứ điện thoại hỏi thẳng Vi Khuê. Tôi nhớ số điện thoại của Vi Khuê rồi.
Sáng hôm sau, tôi ra bến xe về Sàigòn. Lần sau, lên nghỉ mát ở Cao Nguyên, tôi chẳng lại thăm ai. Chuyện tình Người Đàn Bà Nữ Sĩ Dalat đang nhảy trên những dòng chữ đánh máy.
Sau ngày đảo chánh 1963, báo chí được phép xuất bản nhiều tờ, trong số ấy có tên Chử Bá Anh-Vi-Khuê là chủ bút một tạp chí Phụ Nữ rất nổi tiếng, thuộc vào loại báo đàn chị của Sàigòn thanh lịch.
* * *
Đào quay sang bảo chú:
“Mấy ông văn nghệ sĩ rắc rối lắm! Cháu chỉ thích yêu mà không như mẹ cháu đã yêu, rồi làm vợ bố cháu.”
“Chú đồng ý với cháu hoàn toàn.”
“Chú có nhiều kỷ niệm với Dalat. Chú có thể kể cho cháu nghe một chuyện nào khác không? Cháu sẽ không bắt chú kể nữa đâu, trừ một chuyện duy nhất này nữa cháu yêu cầu.”
T3 nhớ lại chuyện thằng bạn nhiếp ảnh ở Dalat. Tên nó, chẳng quan trọng bằng sự sống một thời của nó. Là đàn em của một chính khách, sau đàn anh trở thành Bộ trưởng Thông tin, người kế chức vụ của Tổng trưởng Thông tin Phạm Xuân Thái vào cuối 1955 ở Sàigòn. Đổng lý văn phòng của Bộ trưởng là Lê Khải Trạch. Đổng lý Đoàn Cù trong truyện, ngoài đời chính là tác giả tập thơ Nhạc Dế và Tê Ba văn sĩ đội tên Thoa, thằng nhà báo mất dạy. Trước khi kể cho Đào nghe, thâm tâm tôi cũng muốn cho Đào biết rằng chỉ nên có cảm tình với chú, còn thực tế muốn chú đóng vai bố cháu cưới con gái của kịch tác gia kiêm Giám đốc nhà xuất bản lớn có hạng tiền chiến (Tân Dân), chú cũng đành không dám. Bởi thế, Đào ạ, chú thật sự muốn hôn cháu, nhưng lại không dám... là vì vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét