Bây giờ ở tuổi xế chiều, nhớ lại quãng đời lúc còn trẻ, tôi thấy thời tươi đẹp nhất là 3 năm học Đại học Sư phạm tại Đà Lạt.
Đậu Tú Tài 2 vào mùa hè năm 1960, tôi ghi danh vào lớp Dự Bị Văn Khoa của Đại học Sài Gòn. Học được nửa năm thì thấy Thông cáo cuộc thi tuyển vào Đại Học Sư Phạm của bộ Giáo Dục, tôi bèn ghi danh đi thi 2 ban: Triết học và Anh văn. Tự thấy mình cũng đã lớn rồi, phải tìm nghề ngỗng mà sống, chứ làm sao có thể ở trong tình trạng “cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” mãi được. Cuối cùng là đến kỳ thi, và tôi đậu vào ban Triết học. Tôi có nhận được thư thông báo là tôi phải đi Đà Lạt để học lớp Triết trên đó, năm thứ nhất bắt đầu từ niên khóa 1961-1962. Học 3 năm, nếu song suốt trong các kỳ thi lên lớp và thi mãn khóa, chúng tôi sẽ ra trường vào mùa hè 1964, và nhận nhiệm sở đi dạy đầu tiên vào niên khóa 1964-65.
Đến Đà Lạt, tôi như rơi vào cõi mộng mơ.Đà Lạt có một cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời, không khí mát mẻ, rừng thông, hồ nước, đồi núi... giàn trải một cách hài hòa và mỹ thuật không khác nào 1 bức họa lớn. Khi ghi danh nhập học tại văn phòng Viện Đại Học ĐàLạt tôi có cảm giác như đang làm thủ tục để vào cư ngụ trong một cõi thần tiên.
Tôi không xin vào nội trú trong đại học xá ở ngay trong trường, vì tôi có một nhà bà con tại thành phố này, và chú tôi, người đã đến đây lập nghiệp từ lâu, khuyên tôi ở nhà chú tôi để đi học. Tôi rất hạnh phúc khi mới tới xứ lạ, gặp được tình cảm ấm áp của bà con giòng họ như ôm ấp lấy mình.
Ngày tựu trường, lớp tôi sĩ số khoảng 30 người, từ tứ xứ tới đây, bắt đầu làm quen với nhau. Người tôi để ý đầu tiên là Tô Văn Lai vì anh là người đỗ đầu của cuộc thi tuyển vào lớp này. Anh có vẻ rất thư sinh, quần áo chỉnh tề, ăn nói vừa điềm đạm vừa vui vẻ. Lớp chúng tôi có đến 3 người tên Minh mà anh em trong lớp dần dần dựa vào đặc tính của mỗi người để đặt cho mỗi người một biệt hiệu để phân biệt. Một bạn cao lớn đẹp trai như tài tử điện ảnh, anh em đặt tên là Minh Pat Boone; một bạn khác được đặt biệt hiệu là Minh Cờ Bạc (có thể trong đời sống nội trú anh này hay tổ chức cờ bạc để giải trí chăng); còn tôi, có biệt danh là Minh Xe Lam, vì sau mấy tháng nhập học tôi được gia đình gửi tiền để mua một chiếc Lambretta cũ để đi học, vì nhà chú tôi cách trường đến 6 cây số.
Một điểm đặc biệt của lớp chúng tôi là qua quá trình học, chúng tôi hầu như không biết sức học của nhau. Chúng tôi tới lớp nghe giảng, ghi bài giảng mang về để học. Với những vị giảng bằng tiếng Pháp, chúng tôi được phát những tập bài giảng bằng tiếng Pháp in ronéo, vì không phải ai trong đám sinh viên chúng tôi (nhất là những người học trường Việt) có thể nghe hiểu và ghi chép bằng tiếng Pháp. “Sức học” thực ra là ở cách học của mỗi người, ở công sức đọc sách tìm hiểu sâu thêm ở từng môn học, khả năng đó chìm sâu trong từng con người, không thể đem ra thi thố hơn thua ở mặt ngoài. Các giáo sư rất ít khi ra bài tập cho sinh viên. Điều này dễ hiểu, có nhiều vị giáo sư dạy tại 3 trường khác nhau, là Sài Gòn, Đà Lạt và Huế, hầu như tháng nào cũng đi luân phiên như thế, việc theo dõi trình độ học vấn của sinh viên bằng cách ra đề tài để viết luận văn là một việc không thể làm được. Tôi nhớ trong 3 năm học, chúng tôi chỉ một lần phải làm một bài luận triết cho Giáo sư Lê Tôn Nghiêm, vài tháng sau khi chấm xong bài được trả lại với cách cho điểm bằng bút chì A, B hoặc C, với một số nhận xét chung cho cả lớp. Cho nên “cuộc sống” của tập thể lớp chúng tôi khá vui và bình đẳng, không ai giỏi hơn ai, hay kém hơn ai. “Học lực” của mỗi người là cái chỉ có người đó (may ra) mới biết thôi.
Tôi là dân ngoại trú, thỉnh thoảng cũng ghé vào chơi với các bạn nội trú. Các phòng trong học xá khá rộng rãi thoải mái, giường, tủ, bàn học rất tươm tất. Tôi nhớ chỗ bàn học của Tô Văn Lai trông sang hơn bàn của các bạn, vì trên bàn của Lai có một cái radio nhỏ trông rất xinh xắn. Cả học xá chỉ một mình Tô Văn Lai có tài sản ấy. Và đó, cái radio ấy, chính là đề tài một câu chuyện rất vui và gay cấn mà tôi sắp kể dưới đây.....
Vào một buổi tối mùa đông trời rất lạnh, tất cả sinh viên trong phòng của Lai đều co ro tại bàn học của mình chămchú đọc bài vở hoặc nghiên cứu tài liệu. Bỗng dưng Tô Văn Lai với tay cầm chiếc radio giơ lên rồi nói to với tất cả anh em trong phòng:
“Giờ này mà đứa nào bơi qua được hồ Xuân Hương thì tao chịu mất cái radio này để thưởng cho thằng đó.” Cả phòng đang im lìm bỗng xôn xao hẳn lên, anh em nhìn nhau để dò hỏi ai là người dám “bắt” sự thách đố này. Mấy phút trôi qua, rồi Minh Cờ Bạc đứng dậy bước ra giữa phòng dõng dạc nói:
“Tao bơi!”
Minh Cờ Bạc thân mình mập mạp và dáng điệu ra vẻ tay chơi, nói với cả phòng:
“Tụi mày làm chứng cho vụ này nhé, tao sẽ ra bờ hồ, sang bên kia chỗ Nhà Thủy Tạ rồi từ đó bơi xuyên bề ngang của hồ, tới bến cho mướn pédalo. Nào, chúng mình cùng đi ra bờ hồ!”
Tưởng là một thách đố khơi khơi cho vui giữa đêm trường lạnh giá,nào ngờ có người “bắt” liền, Lai thoạt tiên cảm thấy chới với. Nhưng một lời đã nói ra, 4 ngựa không theo kịp, Lai đành chuẩn bị đi ra bờ hồ với cả phòng. Các phòng khác nghe chuyện lạ, anh em sinh viên ai cũng háo hức mặc thêm áo ấm chuẩn bị đi ra bờ hồ để chứng kiến một cuộc thách đố ly kỳ chỉ có thể xảy ra trong một đêm đông Đà Lạt: có hồ để bơi, có không khí buốt giá của đêm trường, có một tập thể sinh viên đủ nghịch ngợm và chịu chơi trước một thách đố khó khăn…
1 bạn có xe gắn máy tình nguyện chở Minh Cờ Bạc chạy thẳng ra Nhà Thủy Tạ. Đám còn lại đi bộ, mang theo nào khăn tắm, nào mền để phủ ấm cho Minh Cờ Bạc khi hắn bơi được tới bờ. Hình như không ai nghĩ tới việc Minh Cờ Bạc sẽ bị lạnh cóng giữa hồ và sẽ không bao giờ tới bến cho mướn pédalo. Ai cũng thấy đây là một trò vui hiếm có, mặc dù trong một điều kiện khá nguy hiểm.
Khi đám đi bộ đã tới bến cho mướn pédalo thì người bạn đi xe gắn máy cũng vừa từ nhà Thủy Tạ chạy qua, cho biết Minh Cờ Bạc đã sẵn sàng, anh em bên này đã tới đầy đủ thì Minh sẽ bắt đầu phóng xuống nước. Sương mù dày đang phủ trên mặt hồ, dù quanh hồ có nhiều trụ đèn đường nhưng nhìn ra hồ chỉ thấy một khối sương trắng xóa.Cảnh tượng đó càng làm tăng thêm cảm tưởng... rùng rợn của cuộc chơi. Nhưng không một ai đưa ra ý kiến ngưng vụ thách đố này lại. Đó cũng là đặc tính của tuổi trẻ, luôn luôn đứng về phía mạo hiểm. Người đi xe gắn máy chạy vù qua Nhà Thủy Tạ để báo cho tay bơi có thể bắt đầu xuống nước.
Cả đám đông đứng chờ bên này hồ bỗng nhiên yên lặng, im phăng phắc dán mắt vào khối sương trắng trên mặt hồ, tai lắng nghe thử có tiếng đập nước nào vang ra từ cái khối trắng xóa kia không. Thời gian như ngưng lại, một phút trôi qua như vô tận. Bao nhiêu khái niệm về thời gian vật lý và thời gian tâm lý đang thử thách đám sinh viên triết học này,giữa trời khuya, bên bờ hồ giá lạnh. Đúng là họ đang căng mắt nhìn vào đám sương mù trên mặt hồ mà bấy giờ họ thấy như là một chướng ngại thiên thu không thể nào xoi thủng được. Bao nhiêu phút đã qua? Minh Cờ Bạc có đang làm động tác bơi lội trong khối nước lạnh kia không? Hay là chàng ta đang bị cóng lạnh, tay chân không hoạt động được, đang chống chọi một cách vô vọng với cái khắc nghiệt của thiên nhiên? Và biết đâu đang chìm dần xuống đáy hồ? Cả đám người trai trẻ đứng trên bờ hồ im phăng phắc như bỗng dưng bị cấm khẩu hết. Họ chỉ biết nhìn cái khối sương mù trắng toát trên mặt hồ, từng giây, từng giây trôi qua. Bỗng một tiếng la to:
“Nó kia rồi!”
Rồi nhiều tiếng hỏi xôn xao:
“Đâu? Đâu?”
Như “nó” chỉ là một ảo giác. Nhưng không, người ta đang nghe rõ tiếng đập nước của một người đang bơi. Nhiều tiếng thở phào của đám người đang chờ trên bờ, và họ lại thấy cuộc chơi bắt đầu hào hứng trở lại. Và một cái bóng đen đang chui ra khỏi khối sương mù và đang sãi tay tiến một cách vũ bão vào bờ. Cả đám ồ lên vui mừng. Có lẽ từ khi có thành phố Đà Lạt cho đến giờ phút ấy, chưa bao giờ có 1 tiếng la vang dội như thế giữa một đêm đông giá buốt trên bờ hồ này. Minh Cờ Bạc leo lên bờ như một anh hùng thắng cuộc, lập tức được trao cho 1 cái khăn tắm để lau mình, rồi không mặc áo quần gì cả, 1 cái mền bông dày quấn ngay thân thể của chàng lại, quấn kín mít để không một chút gió lạnh nào chạm được vào da thịt chàng, rồi chàng được bế lên xe, rồi tài xế chạy vù về viện.
Hôm sau được hỏi cảm giác khi bơi trong hồ, Minh Cờ Bạc tiết lộ:
“Tao không ngờ giữa đêm khuya không khí lạnh buốt như thế mà nước hồ lại rất ấm. Gần như bơi trong một piscine nước nóng vậy thôi.”
Hoạt cảnh đó đã xảy ra từ 60 năm trước. Những người tham dự “cuộc vui” trên bờ hồ Xuân Hương năm đó, có người nay đã về với ông bà, có người đã râu tóc bạc phơ. Vai chính bày ra cuộc chơi ấy năm xưa, Tô Văn Lai, nay cũng vừa lìa bỏ trần thế.
Tại Little Saigon này, lâu nay chỉ còn 3 người bạn cùng học khóa Triết năm ấy, thỉnh thoảng gặp nhau, là Tô Văn Lai, Trương Đình Tấn và Phạm Phú Minh. Nguyễn Văn Lục từ Canada một dạo lạc đường vào tình sử cũng có mặt tại vùng Nam California này một thời gian, vị chi là 4 người. Có lần tôi hỏi Tô Văn Lai về vụ thách đố đầy hồi hộp năm xưa, Lai đã nói với tôi: “Tối hôm đó đứng bên bờ hồ, tôi cảm thấy rất lo lắng và sợ, sợ thằng Minh Cờ Bạc nó chết đuối giữa hồ. Nếu việc đó xảy ra, cuộc đời của tôi không biết rồi sẽ ra sao!”
May mắn là Minh Cờ Bạc đã thắng được cái radio của Tô Văn Lai, và cuộc đời của Lai tiếp tục tươi sáng, thành công, cho đến giây phút cuối cùng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét