Những ký ức thời sơ tán
Nguyễn Thị Hậu
Đoàn kịch nói Nam bộ - lúc này ba tôi làm Trưởng đoàn - sơ tán về Lạc Đạo, một xã ở ven đường quốc lộ số 5, gần ga Như Quỳnh trên con đường huyết mạch Hà Nội – Hải Phòng. Lãnh đạo đoàn đã đưa gia đình của diễn viên, nhân viên về đây từ hè để kịp cho các con vào năm học mới.
Cứ mỗi cuối tuần tôi lại đạp xe về Hà Nội để mang gạo mì mắm mỡ lên nơi sơ tán. Chiều chủ nhật ba má đưa tôi đi, đến cầu phao Chương Dương ba dẫn xe đạp cho tôi qua cầu, má đứng lại đầu cầu nhìn theo với đôi mắt đỏ hoe…
Tôi đạp xe đi, có khi một mình, có khi cùng với hai anh em Minh và Yến, là con của nghệ sĩ Tường Vân. Mỗi đứa một xe đằng sau có hai cái túi làm bằng lốp xe đạp, trong đó có thức ăn cho một tuần mười ngày, có mấy cái bánh mì hay gói bánh ngọt má tôi gửi biếu nhà bác chủ nhà nơi sơ tán, khi là gói đường hay ít mì chính (bột ngọt) gửi bác gái, khi là mấy mét vải màn gửi cho các con gái bác chủ nhà…
Hình ba, mẹ tác giả chụp vào năm 1972. |
Đường 5 chạy song song với đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng, ban ngày vắng xe ô tô qua lại, chỉ có người đi xe đạp, lỡ có máy bay thì lao ngay vào vệ đường hay gốc cây, vứt xe đấy mà nhảy xuống hào giao thông. Thỉnh thoảng có chuyến tàu vội vàng trên đường ray, nhưng khi có máy bay thì cũng ngừng lại, người trên tàu túa xuống tìm nơi ẩn nấp. Khi máy bay đi rồi, tàu hú vài tiếng lại tiếp tục lăn bánh.
Đi qua Trâu Quỳ - nơi có bệnh viện tâm thần – vẫn thấy thấp thoáng sau bức tường sơn loang lổ màu phòng không là những bệnh nhân đi lại, nhảy nhót, có khi trồng cây, quét sân, có khi là một đám đánh nhau… Nhưng lạ, hễ nghe tiếng loa của bệnh viện, bất cứ nói gì, là bệnh nhân ngoan ngoãn ngay lập tức.
***
Khoảng tháng 10.1972 thì tất cả diễn viên của đoàn kịch cũng đi sơ tán. Tại Lạc Đạo đoàn bắt đầu dựng vở kịch Hòn đảo thần vệ nữ, kịch bản của Hy Lạp do đạo diễn Vũ Đình Phòng dàn dựng. Tôi còn nhớ, vở kịch nói về cuộc chiến tranh du kích của nhân dân đảo Sip chống lại quân xâm lược Anh hồi cuối thế kỷ 19.
Nội dung rất gần gũi với cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhiều tình tiết bất ngờ và hấp dẫn. Lại có dàn diễn viên “gạo cội” như các nghệ sĩ Can Trường, Tú Lệ, Văn Thành, Hữu Hạnh… sắm vai, vì vậy vở kịch này đã trở thành một “hiện tượng” trong đời sống nghệ thuật lúc đó ở Hà Nội và cả miền Bắc, trong suốt các năm sau đó.
Hàng ngày các diễn viên tập trung lại để “thoại lời”, “vỡ hoang” vở kịch (ngồi đọc đối thoại kịch, phân tích lời kịch, tâm lý và tình huống kịch, trước khi tập trên sàn diễn). Bọn trẻ con em diễn viên thì ngay từ những ngày tập đầu tiên đã thuộc câu thoại nổi tiếng “hết ngày dài lại đêm thâu, chúng tôi đi trên đất Phi châu” của một nhân vật trong vở kịch do nghệ sĩ Can Trường thủ vai.
Thời gian này má tôi không đi sơ tán, ngân hàng nơi bà làm việc vẫn ở Hà Nội; chị Ba tôi đã đi học nước ngoài từ cuối năm 1969, còn anh Hai đi bộ đội vào chiến trường B từ năm 1968. Năm 1971 ba tôi cũng đưa đoàn kịch đi Trường Sơn gần nửa năm, tưởng đã đi thẳng vào đến B2 (Nam bộ) nhưng rồi lại phải quay ra. Ba tôi buồn lắm, nhiều lần đi B mà không lần nào về được quê hương…
Giữa tháng 12, trong lúc Hà Nội gần như trong tình trạng “thiết quân luật” thì đoàn kịch nói Nam bộ lại về Hà Nội để diễn tập giai đoạn cuối vở Hòn đảo thần vệ nữ. Đúng vào đêm 18.12 là đêm tổng duyệt ở Nhà hát lớn, mới mở màn được khoảng 30 phút thì còi báo động, rồi tiếng bom rền, tiếng súng cao xạ, tiếng rít dài của tên lửa phóng lên bầu trời… Buổi tổng duyệt phải hoãn lại và cả đoàn đi ngay về nơi sơ tán. Ba tôi quả quyết: Mỹ đã đưa B52 ném bom Hà Nội! Kinh nghiệm đi chiến trường nhiều lần đã cho ông biết điều này trước khi có thông báo từ Đài phát thanh.
Những ngày sau đó tối nào cha con tôi cũng đứng ở cánh đồng nhìn về Hà Nội, nơi có quầng sáng mờ mờ và tiếng bom rền, nơi những loạt đạn đỏ lừ vọt tên trời cao, và thỉnh thoảng một chiếc tên lửa rít lên lao vào không trung… Để rồi sáng hôm sau chăm chú nghe đài Tiếng nói Việt Nam thông báo khu nào, phố nào bị bom, thương vong hy sinh bao nhiêu, và bao nhiêu B52 bị bắn rơi…
***
Ở Lạc Đạo cha con tôi sống cùng gia đình bác Mai, bác cũng là cán bộ xã, hai bác có bốn cô con gái, chị lớn đã lấy chồng có con, ở nhà còn 3 chị em trong đó có cái Chỉ bằng tuổi tôi, hai đứa học cùng lớp 6 ở trường cấp II của xã. Trong trường có một số thầy cô và nhiều bạn bè cũng từ Hà Nội sơ tán về, vì vậy sơ tán lần này không làm cho tôi bỡ ngỡ như những lần trước khi tôi còn quá nhỏ. Và cũng vì “lớn rồi” nên việc học hành phải tự lo, lại còn phải biết nấu cơm cho ba, thỉnh thoảng làm vài món nhậu cho ba và các chú nữa.
Khi sơ tán về Lạc Đạo tôi bước vào tuổi thiếu nữ, bắt đầu biết để ý vẻ ngoài, biết chăm chút đến mái tóc, bộ quần áo. Tóc tôi dài quá gấu áo và rất dày, thường tết thành hai bím tóc, đằng trước những sợi tóc quăn tự nhiên cứ xòa xuống má. Mấy cô ở đoàn kịch cứ ghẹo tôi là “Mai Liên” – tức là Miên lai vì nước da ngăm đen và mái tóc quăn.
Chiến tranh nên quần áo đều nhuộm xanh hoặc nâu, đen. Con gái thường mặc áo cổ lá sen với quần đen, thường là quần “phíp” (gần giống như vải lanh) hoặc quần vải. Tôi có một cái quần lụa đen đã ngả màu, từ má tôi rồi đến chị gái rồi mới đến lượt tôi mặc nên nay rách mai sờn… Trong ba lô mang đi sơ tán tôi có 4 cái áo và 3 cái quần, thật là một gia tài lớn! Đi học cùng lớp với con gái út của bác chủ nhà nên tôi thích mặc cái áo màu nâu giống cái Chỉ. Đến lớp nếu không nói ra thì thầy cô không biết tôi người Hà Nội vì các bạn gái Hà Nội vẫn mặc áo hoa áo màu…
Hình tác giả chụp vào tháng 7.1972. |
Ngoài giờ đi học tôi cùng các chị trong nhà đi gánh phân, làm đất trồng rau, đi bón kali cho ruộng khoai tây, rồi thu hoạch rau vụ đông… Nhà bác chủ làm gì thì tôi làm việc ấy, lúc đầu vụng về rồi sau cũng quen tay. Ba tôi không nói gì nhưng tỏ ý bằng lòng. Còn má thì luôn nhắc “con gái ở nhà người ta phải ý tứ”. Có những ngày “đau bụng”, tối mịt tôi cầm đèn dầu một mình đi ra con mương cuối làng giặt giũ (vì đàn bà con gái không được giặt “đồ bẩn” ở giếng nhà, phơi phóng cũng phải che chắn cho khuất mắt). Một lần đèn hết dầu mà tôi không để ý, ra tới mương đèn tắt, tôi đành mò mẫm giặt rồi mò mẫm đi về. Đến cổng thấy ba tôi như đang đứng chờ, trong ánh đèn từ nhà hắt ra cặp mắt kiếng của ba hình như loáng ướt…
***
Một phiên chợ bác gái chủ nhà đi bán gánh khoai tây, lúc về mua một con chó con rất xinh. Được hai, ba ngày con chó uể oải bỏ ăn, bác gái đút cơm cho nó bị nó cắn xước một chút ở tay. Ai dè khoảng một tuần sau bác gái lên cơn dại. Lúc đầu bác nóng sốt cao, rồi sợ gió sợ ánh sáng, bác nằm trong buồng tối và bắt cả nhà che chắn hết các khe cửa… rồi chiều tối thì bắt đầu tru lên từng hồi. Đến lúc này mọi người mới biết bác bị lên cơn dại, hùa nhau đi tìm đập chết con chó con. Tôi nhớ mãi cảnh con chó nằm bẹp dưới cối xay lúa, xung quanh cơm vãi kiến bu đầy, khi bị lôi ra con chó đã yếu lắm rồi, vậy mà nó biết, nó chảy nước mắt…
Hôm đó là thứ bảy, tình cờ chiều tối má tôi lên thăm, gặp lúc bác gái ốm má tôi là người duy nhất vào buồng xoa bóp cho bác gái khi bác tỉnh lại. Bị bệnh dại lạ lắm, khi lên cơn thì tru tréo không ai dám đến gần, nhưng qua cơn rồi thì người rất đau nhức nhưng tỉnh táo. Mỗi lần má tôi vào xoa bóp là bác gái lại dặn dò cẩn thận: ai nợ bác cái gì, nhà còn nợ ai bao nhiêu, bác để dành cho các con gái những gì, chuẩn bị đám cưới chị thứ hai thế nào… Cứ thế, vật vã đến trưa hôm sau thì bác gái mất. Má tôi thay cho bác bộ quần đen và chiếc áo bà ba màu xanh mới tinh mà tôi cẩn thận mang đi sơ tán cất để dành cho má. Bác trai nức lên “cả đời bà bây giờ mới được mặc quần áo mới, bà ơi…”.
Đó là một cú sốc rất lớn với tôi, sau cú sốc hồi học lớp Hai một đứa bạn thân của tôi bị chết vì bom Mỹ. Từ đó, tất cả mọi thứ với tôi đều nhạt nhòa, hình như không còn gì đáng nhớ.
Sau đợt B52 của Mỹ ném bom Hà Nội, Hải Phòng vào cuối tháng 12/1972, đầu tháng 1/1973 Đoàn kịch lại về Hà Nội nhưng tất cả gia đình con cái vẫn ở Lạc Đạo, cho đến sau ngày ký kết Hiệp định Paris mới trở về Hà Nội kịp đón cái “Tết hòa bình”.
***
Năm 1975 cả nhà tôi về Sài Gòn. Khoảng năm 1978 ba tôi cùng Đoàn kịch nói Nam bộ ra Bắc biểu diễn “đền ơn đáp nghĩa” ở những nơi đoàn từng sơ tán. Về Lạc Đạo ba tôi gặp lại bác trai, nhưng bác đã yếu nhiều. Lúc này Lạc Đạo nổi tiếng vì một “đặc sản” lâu đời mà lúc trước luôn phải giấu giếm: rượu cuốc lủi.
Bây giờ Lạc Đạo còn là nơi làm cơm nắm muối vừng mang bán khắp Hà Nội. Cứ ra Hà Nội là tôi luôn tìm mua cơm nắm của các chị gánh bán rong, lần nào tôi cũng nghĩ, biết đâu sẽ gặp lại cái Chỉ…
(Những ngày tháng 12.1972, 50 năm trước)
Nguyễn Thị Hậu
------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét