Sáng nay, tôi nhận được hai thư, một của Linh, con út giáo sư Nguyễn Văn Trung báo tin cha đã qua đời lúc 21 giờ 20 ngày 19-10-2022 (tại Montréal, Canada). Đang bàng hoàng, thì nửa tiếng sau có thư của Hoàng Dũng, chủ biên Văn Việt.
Trong gần bốn mươi năm cầm bút viết phê bình và biên khảo, tôi vẫn coi ông là người thày thứ nhất, dù không học ông ngày nào. Không chỉ vì sự nghiệp văn học đồ sộ của ông, vì ông mở đường cho triết học và phê bình Việt Nam vào thời hiện đại, mà còn ở tinh thần tự do, phóng khoáng, chấp nhận những sự lên án, đôi khi hết sức thiển cận và đầy ác ý của đối phương, và lòng khoan dung, chừng mực, khi nhận định con người và các vấn đề.
Bài dưới đây tôi viết từ năm 2018, theo yêu cầu của anh Nguyễn Huệ Chi, cho Từ Điển Văn Học Bộ Mới, sẽ được tái bản sau 20 năm ra đời. Tôi nhận trách nhiệm lựa chọn và đưa vào thêm khoảng 30 nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo, của văn học miền Nam, và giáo sư Nguyễn Văn Trung là một trong những khuôn mặt hàng đầu cùng với Mai Thảo, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, và nhiều người khác. Cho đến nay đã hơn bốn năm trôi qua, việc tái bản Từ Điển Văn Học Bộ Mới, vẫn chưa thực hiện được. Những lời tôi “cam kết” với giáo sư ngày ấy: “Lần này em viết kỹ và đầy đủ lắm, anh đừng lo,” ông chưa bao giờ kiểm lại, trước khi qua đời.
Hôm nay, lần đầu tiên tôi công bố mục từ này, để tri ân giáo sư và tri ân nền văn học Việt.Yên Cơ, Les Issambres, ngày 20-10-2022
Thụy Khuê
Da Màu
Nguyễn Văn Trung
(26.09.1930 – 19.10.2022) là nhà giáo, nhà văn, và triết gia Việt Nam, bút hiệu Hoàng Thái Linh, Phan Mai. Sinh tại làng Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, trong một gia đình công giáo đông con. Cha là Nguyễn Văn Tuynh, thầy thuốc Bắc và mẹ là bà Thiệu Thị Tốt. Thuở nhỏ học trường dòng Puginier ở Hà Nội. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, tản cư về Hà Đông học ở chủng viện Hoàng Nguyên. Đến 1950, trở lại Hà Nội theo ban tú tài văn chương ở trường Chu Văn An. Năm 1951, đỗ tú tài I, được nhà dòng cấp học bổng du học ở Âu Châu. Đến Toulouse rồi sang Bỉ học đại học Louvain, đậu cử nhân triết học, theo ban tiến sĩ triết học phần I. Cuối năm 1955 về Sài gòn, dạy triết ở trường Chu văn An. Từ 1957, dạy triết tại đại học Huế. 1961 trở lại đại học Louvain trình luận án tiến sĩ và lấy bằng Tiến sĩ triết học, về nước (1961) dạy triết và văn ở đại học Văn Khoa Sài Gòn. Kết hôn với cô Trần Thị Minh Chi. Khoảng 63-64, dạy đại học công giáo Đà Lạt. Một thời gian sau, ông bị “đuổi” khỏi đại học công giáo vì ảnh hưởng “độc hại” của cuốn Ca tụng thân xác trên sinh viên.
Sau 1975, ông ở lại đại học văn khoa, nhưng các giáo sư miền Nam cũ không được dạy ba môn Văn, Triết, Sử nữa, ông chuyển sang nghiên cứu. Từ năm 1993, ông định cư ở Montréal, Canada.
Sách đã xuất bản: Sách giáo khoa: Luận lý học (tủ sách Á Châu, 1957). Đạo đức học (tủ sách Á Châu 1957). Luận triết học tập I (nhà xuất bản Nam Sơn). Phương pháp làm luận triết học (nxb Nam Sơn). Tiểu luận: Nhận định I (nxb Nguyễn Du, 1958). Nhận định II (nxb Đại học 1959). Nhận định III, (nxb Nam Sơn, 1963). Nhận định IV ( Nam Sơn, 1966). Nhận định V (Nam Sơn, 1969). Nhận định VI (Nam Sơn, 1972). Lý luận văn học: Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Cơ sở xuất bản Tự Do, 1962). Lược khảo văn học tập I (Nam Sơn 1963). Lược khảo văn học II (Nam Sơn, 1965). Lược khảo văn học III (Nam Sơn 1968). Văn học và chính trị: Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất và huyền thoại (Nam Sơn 1963). Chữ và văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc (Nam Sơn, 1974). Trường hợp Phạm Quỳnh (phỏng vấn những người viết sách báo đương thời với Phạm Quỳnh, Nam Sơn 1974). Chủ đích Nam Phong (Trí Đăng, 1975). Vụ án truyện Kiều (tập hợp những bài viết trong vụ tranh luận về truyện Kiều giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh năm 1924, in 1972). Triết học: Triết học tổng quát (Vĩnh Bảo, 1957). Ca tụng thân xác (Nam Sơn 1967). Hành trình trí thức của Karl Marx (Nam Sơn 1969). Đưa vào triết học (Nam Sơn 1970). Góp phần phê phán giáo dục và đại học (Trình Bày, 1967). Ngôn ngữ và thân xác (Trình Bày, 1968). La conception bouddhique du Devenir (Xã Hội, 1962). Danh từ triết học (làm chung với LM Cao Văn Luận, Đào Văn Tập, Trần Văn Tuyên, LM Xuân Corpet (nxb Đại học 1958). Tôn giáo: Biện chứng giải thoát trong Phật giáo (nxb Đại học Huế, 1958). Người công giáo trước thời đại (nhiều tác giả) (Đạo và Đời, 1961). Lương tâm công giáo và công bằng xã hội (Nam Sơn, 1963). Sau 1975: Câu đố Việt Nam (nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1986. Những áng văn quốc ngữ đầu tiên: Thầy Phiền của Nguyễn Trọng Quản (Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh, 1987). Về sách báo của tác giả công giáo thế kỷ XVII-XIX (nhiều tác giả, nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh 1993). Lục châu học.Trương Vĩnh Ký Nhà Văn Hoá. Bản thảo soạn sau 75, chưa in: Ngôn ngữ và văn học dân gian, Ăn mặc theo truyền thống Việt Nam, Đạo chúa vào Việt nam, Hồ sơ về hàng giám mục Việt Nam, Nhận định VII, VIII. Ở hải ngoại, viết thêm Nhận định IX và X.
Ngoài những tác phẩm liệt kê trên đây còn hàng trăm bài báo đủ mọi thể loại, in trên các báo hàng ngày như Tin sáng, Dân chủ mới, Hoà bình… hoặc các tạp chí như: Văn học, Bách khoa, Đại học, Sáng tạo, Thế kỷ XX, Đất nước, Nghiên cứu văn học, Văn, Sống đạo, Hành trình, Thái độ, v.v… chưa in thành sách.
Sau 1954, ở miền Nam một số giáo sư đại học như Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan (Nguyên Sa) v.v… đã thực sự dựng nền móng cho môn triết học Tây phương. Để giảng dậy, họ phải dịch những danh từ triết ra tiếng Việt và viết sách. Trần Thái Đỉnh và Nguyễn Văn Trung là hai người đã có công lớn trong việc phổ biến triết học hiện đại trong đại học và trong tác phẩm văn học, với lối viết trong sáng, dễ hiểu. Trần Thái Đỉnh giới thiệu các lý thuyết triết học, chủ yếu là triết học Kant và triết học hiện sinh. Nguyễn Văn Trung áp dụng triết học vào các địa hạt như phê bình văn học, phê bình xã hội học, nhận định tôn giáo, nhận định lịch sử.
Về mặt triết học thuần túy, Nguyễn Văn Trung có hai cuốn tiêu biểu: Ca tụng thân xác(1967) và Ngôn ngữ và thân xác (1968).
Ông Bà Nguyễn văn Trung trước và sau 1975
Ca tụng thân xác được viết dưới ngòi bút của một triết gia. Ông dùng hiện tượng luận để phân tích vấn đề thân xác, xưa nay vẫn bị khinh miệt, đặc biệt trong tôn giáo: Theo ông, đời sống tu trì có ba kẻ thù chính: “Satan, Ma quỷ cám dỗ thế gian và xác thịt”. Trong ba kẻ thù này xác thịt nguy hiểm nhất vì là nội thù. Cách đề phòng hữu hiệu nhất là phải khủng bố thường xuyên xác thịt bằng cách hãm mình, ăn chay và đánh tội. Một đức tu như thế nằm trên quan niệm nhị nguyên về con người: phân biệt tinh thần với thể xác, có từ thời cổ Hy Lạp; coi trọng đời sống tinh thần, còn vật chất và thân xác bị coi như những chướng ngại vật ngăn cản con người hướng thượng. Sự khủng bố thể xác là một thứ “sa đích đạo đức”. Thân xác bị lãng quên, bị bỏ quên, con người đâm ra không biết gì về thể xác của mình: Con người xa lạ với thể xác của mình. Triết học hiện đại (hiện sinh) cho rằng không thể tách rời thể xác với tinh thần: Khi ốm đau, đói khát, thì tinh thần cũng chịu, không thể minh mẫn mà suy nghĩ được, cho nên: Tôi là thể xác tôi. Do đó có thể nói: con người hiện diện ở đời bằng thân xác, nhưng lại ở trong một tình trạng vong bản vong thân thường xuyên, nghĩa là quên mình vì tâm trí lúc nào cũng ở nơi khác, ở đâu đó, chỉ chăm chú đến những đối tượng ngoài mình. Vì vậy con người cần phải “khám phá” lại mình, khám phá thân xác, lúc ốm đau đói rét, lúc soi gưong, lúc xấu hổ e thẹn… để thấy rằng “thân xác là một thực tại mở”. Biện chứng mở giải thích vấn đề dục tính và đưa đến kết luận: thân xác là một giá trị. Ca tụng thân xác là ca tụng con người. Không chỉ có tinh thần mới thiêng liêng, thân xác cũng thiêng liêng. Vấn đề không phải là chối bỏ hay hủy diệt thân xác, nhưng phải làm sao đảm nhiệm được một cách đích thực sứ mệnh làm người trong thân phận của mình, là một vật có thân xác.
Giáo sư Nguyễn văn Trung và cháu trai
Nguyễn Văn Trung viết Ca tụng thân xác với chủ đích tố cáo những nền văn minh, những chủ nghĩa duy thần, duy linh, duy tâm giả dối nói chung trên trái đất và tiếp theo đó ông viết Ngôn ngữ và thân xác để trình bày vấn đề thân xác nhìn từ hoàn cảnh riêng biệt của Việt Nam. Trước hết ông nêu vấn đề: Có tư tưởng Việt Nam hay không? Nếu có thì nó nằm ở chỗ nào? Để tìm hiểu tư tưởng Việt Nam, ông nêu câu hỏi: Chúng ta có triết học hay không? Và ông đề nghị: nên dùng chữ triết lý để chỉ định triết lý như một thái độ sống bao hàm một quan niệm sống, và triết học để chỉ định triết lý như một tri thức có hệ thống về cuộc đời.
Như vậy triết lý là thái độ sống, thì có thể là của một cá nhân hay một cộng đồng; còn triết học là một tri thức có hệ thống thì bao giờ cũng chỉ là của một cá nhân, như Triết học Aristote, triết học Kant, triết học Khổng tử…
Vậy: người Việt Nam có triết lý mà không có triết học. Tại sao?
Ông giải thích: Vì sự lệ thuộc văn hóa ngoại bang trong nhiều thế kỷ: Sĩ phu Việt chống Tàu, nhưng chấp nhận và sùng bài ý thức hệ Nho giáo, trọng sách thánh hiền, không dám tự nghĩ, tự sáng tạo.
Đến thời Pháp thuộc, vần đề cũng lại như thế: Trí thức Việt chống Pháp nhưng lệ thuộc vào văn hoá tư tưởng của Pháp. Và đó cũng là vấn đề chung của các nước nhỏ bên cạnh nước lớn như Bỉ, Thụy Sĩ, Luxembourg bên cạnh Pháp, Đức.
Cho nên chúng ta chỉ có triết lý dân tộc, vậy triết lý ấy nằm ở đâu?
Ở trong ngôn ngữ. Những triết gia theo hiện tượng luận như Heidegger, coi ngôn ngữ như “cái nhà, đền thờ của hữu thể”. Con người hiện diện bằng thân xác, do đó, ngôn ngữ và thân xác là hai yếu tố cấu thành nên tư tưởng dân tộc Việt Nam và ông đã dùng hiện tượng luận để phân tích vị trí của thân xác trong hệ thống ca dao, tục ngữ và ngôn ngữ tục của Việt Nam.
Về lý luận phê bình, Nguyễn Văn Trung là một trong những người đầu tiên đã giới thiệu và xử dụng lý luận văn học Tây phương một cách có hệ thống. Tác phẩm tiêu biểu của ông trong địa hạt này là bộ ba cuốn Lược khảo văn học.
Tập I: Những vấn đề tổng quát, sườn dựa trên những câu hỏi mà Sartre đã đề ra trong tác phẩm Qu’est-ce-que la littérature (Văn chương là gì?): Viết là gì? Viết cái gì? Tại sao viết? Viết thế nào? Viết cho ai? Nhưng Nguyễn Văn Trung trả lời trong bối cảnh Việt Nam; ông tìm cách định nghĩa văn chương, lấy ngôn ngữ văn chương Việt Nam làm đối tượng, và gửi đến độc giả Việt Nam chưa quen với lối phê bình dựa trên nền tảng triết học.
Tập II: Ngôn ngữ văn chương và kịch, (1965), bàn về công dụng của văn chương, giới hạn địa bàn trong các thể loại: thơ, tiểu thuyết và kịch, và ông xác định: muốn tìm hiểu văn chương một cách quy mô, thì phải dựa trên những phương tiện ngữ học (thời điểm 1967, ông mới chỉ mới biết qua phương pháp ngữ học của Jakobson), tiếc rằng ở Việt Nam lúc đó, ngữ học chưa phát triển, cho nên khó có thể đi đến việc tìm hiểu sâu sắc các tác phẩm văn học.
Tập III: Nghiên cứu và phê bình văn học, ông trình bày quan niệm tìm hiểu tác phẩm như một kiến trúc ngôn ngữ. Đối chiếu những quan niệm phê bình cũ với những quan niệm mới và nói lên giới hạn của phê bình văn học.
Tập tiểu luận Nhận định, vừa là tên sách (10 tập) vừa nói lên chủ đích của tác phẩm: “phản ảnh những chặng đường tìm kiếm suy tư”. Nói khác đi: nhận định ở đây có nghĩa là nói lên những suy nghĩ của mình về vấn đề này, hay vấn đề khác. Và ông đã dùng hiện tượng luận để mổ xẻ và đưa ra những ánh sáng mới về các đề tài như: Thông cảm, E lệ, Hối hận, Cái nhìn, Tự tử v.v… cho nên những nhận định của ông trên nhiều lãnh vực: văn chương, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị… luôn luôn có tính thuyết phục cao.
Nhận định phản ảnh tư tưởng và phong cách của Nguyễn Văn Trung–dù đồng ý hay không đồng ý với ông–cũng phải công nhận nơi ông ba đặc điểm: óc phê bình, óc sáng tạo và cái nhìn triết học, đào sâu tới nguồn cội của vấn đề.
Chính ở óc phê bình và tranh luận mà Nguyễn Văn Trung có lắm “kẻ thù” trong mọi địa hạt chính trị cũng như tôn giáo.
Phần văn học và chính trị, chủ yếu đặt trên vấn đề phê bình nhóm Nam Phong và Phạm Quỳnh. Nguyễn Văn Trung cho rằng: Vì Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong đề cao truyện Kiều, cho nên Ngô Đức Kế mới phản bác truyện Kiều, sự phản bác này là để chống chủ trương theo Pháp của Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong. Nếu Phạm Quỳnh không đề cao truyện Kiều mà đề cao Hoa Tiên, thì Ngô Đức Kế cũng sẽ công kích Hoa Tiên. Do đó vụ án truyện Kiều, theo Nguyễn Văn Trung, là một vụ án chính trị chứ không phải văn học. Người ta có thể đồng ý với ông trên lập luận này, nhưng một mặt khác, dù Nam Phong có nhận tiền trợ cấp của Pháp và do Pháp chỉ định đường lối, cũng không thể gạt bỏ những đóng góp tích cực của Nam Phong trong giai đoạn đầu của văn học quốc ngữ. Hơn nữa, Nguyễn Văn Trung đã không đọc kỹ bốn bài diễn văn tâm huyết của Phạm Quỳnh đọc trước cử tọa trí thức ở Paris, năm 1922, nói về cái hay của truyện Kiều và của ca dao Việt Nam, hai kho tàng vô giá của dân tộc, không thể dịch sang tiếng Pháp mà không mất cái hay đi. Bốn bài diễn văn này đã khiến người Pháp, năm 1924, bỏ hẳn ý định dạy thẳng tiếng Pháp cho học trò từ lớp vỡ lòng, mà cho học trong ba năm thuần túy tiếng Việt, để thi bằng sơ học yếu lược, vì thế mà chúng ta còn giữ được nguyên vẹn tiếng nói và chữ quốc ngữ đến ngày nay.
Sau 1975, Nguyễn Văn Trung chuyên hẳn sang nghiên cứu. Năm 1987, ông tìm thấy đoản thiên tiểu thuyết viết theo lối Tây phương sớm nhất: Thày Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Khám phá này đặt lại hoàn toàn vấn đề từ trước đến nay vẫn coi Tố Tâm (1922) của Hoàng Ngọc Phách là tiểu thuyết đầu tiên viết theo lối Tây phương.
Bộ Lục châu học là một công trình nghiên cứu đồ sộ. Ông trình bày và giới thiệu những tác phẩm văn học xuất hiện ở Lục châu (Lục tỉnh Nam Kỳ) từ 1865 đến 1930 (phần lớn đi trước ngoài Bắc). Tập bản thảo quý giá này được lưu chuyền trong giới nghiên cứu trong Nam, ngoài Bắc, đã làm thay đổi diện mạo nghiên cứu văn chương quốc ngữ.
Thụy Khuê
(Soạn theo bài viết về Nguyễn Văn Trung từ năm 2007)
============
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét