Thứ Ba, 14 tháng 6, 2022

" tưởng niệm thi sĩ Khoa Hữu [ i.e. Ngô Đình Khoa 1938- 2012/ Saigon] / Nguyễn Mạnh Trinh / Mỹ / chết )-- trích : https://sangtao.org>

 

Tưởng niệm thi sĩ Khoa Hữu

Posted: 08/05/2012 in Nguyễn Mạnh TrinhTùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Nguyễn Mạnh Trinh


Thi sĩ Khoa Hữu (1938-2012)

Khoa Hữu là một chân dung thi sĩ đặc biệt. Ông sinh sống và viết văn làm thơ ở Việt Nam nhưng cả ba tác phẩm của ông đều xuất bản ở hải ngoại. Thi phẩm đầu tiên là tập thơ Luc Bát do nhà xuất bản Trình bày và nhà thơ Diễm Châu ấn hành tại Pháp năm 1994. Tập thơ thứ hai, Thơ Khoa Hữu, do nhà xuất bản Văn Học xuất bản ở Hoa Kỳ tháng 11 năm 1997. Và thi tập thứ ba, Nửa Khuôn Mặt, do Thư Ấn Quán xuất bản năm 2010.

Tại sao lại có hiện tượng như thế? ở trong nước không in ấn để thi sỉ phải chọn một phương cách quá nhiêu khê phiền toái để cho những đứa con tinh thần của mình chào đời. Có phải đó là một sự kiện “vượt biên văn học” để người cha cho đứa con vượt qua bao nhiêu bờ bãi để tìm “ tự do”? Có phải đó là những thông điệp của người ở lại gửi gấm tâm sự mình.

Theo tiểu sử thì Khoa Hữu tên thật là Ngô Ðình Khoa sinh ngày 21 tháng 8 năm 1938 tại Bắc Phần. Ðào thoát vào Nam tháng 3 năm 1953 Tốt nghiệp Bách Khoa hệ cao đẳng 4 năm. Bị tù chính trị oan, mất sở làm. Sau đó đi dạy tư 4 năm. Ði lính tác chiến 10 năm bị thương hai lần. Ðã đăng thơ và truyện ngắn trên vài tạp chí văn học tại Sài Gòn. Ðến tháng tư năm 1975 thì tan hàng. Trong thời gian sống ở Việt Nam sau 1975 ông vẫn âm thầm sáng tác và không hợp tác với bất cứ tạp chí, tổ chức văn nghệ nào của chế độ hiện hữu.

Bây giờ, người thi sĩ ấy đã ra đi. Nhà thơ Khoa Hữu đã từ trần ngày 5 tháng tư năm 2012 tại Việt Nam. Tôi dù không có một liên hệ thân thiết nào nhưng là một độc giả có nhiều lúc tìm được trong thơ ông những chia sẻ về thời thế về thân phận Việt Nam nên cũng cảm thấy một điều gì mất mát. Cả ba tập thơ của ông, tôi đã có trong những trường hợp khá đặc biệt. Tập thơ Lục Bát do nhà văn Diễm Châu in đã gửi cho tôi với lời nhắn “Tôi nghĩ anh sẽ tìm thấy một người đồng điệu của anh trong tập thơ này”. Tập thơ thứ hai Thơ Khoa Hữu do tạp chí Văn Học xuất bản có sự đóng góp nhỏ nhoi của tôi và nhiều thân hữu khác để in coi như biểu lộ tình cảm đặc biệt với một thi sĩ sống ở trong nước. Tập thơ thứ ba, Nửa Khuôn Mặt, do anh Trần Hoài Thư in với bảo trợ tài chính của anh Nguyễn Thanh Châu, thì cuốn thơ tôi nhận được là một trong những ấn bản đầu tiên được gửi đi .

Thơ của Khoa Hữu chan chứa nỗi niềm. Những tân toan cuộc sống, những ấp ủ một đời, thành những câu thơ để trao gửi đến những người tri âm một chút đồng cảm, một chút sẻ chia:

Buồn ơi thương tiếc ta không
Máu nhăn trang giấy chữ dòng xương khô
Thương thân ta kẻ lưu tù
Tiếc thơ ta tiếng bơ vơ giữa đời
Mưa lầm tháng hạn chưa nguôi
Trăm năm sông lấp vãi bồi chưa yên
Lòng ta gan đá chưa mềm
Bút thiên bi sử ngọn đèn thiêu thân
Buồn ta như cỏ vô tâm
Sớm căng da thú tối câm bóng già
Buồn ta, sao nỡ giết ta
Tóc bay kim cổ bóng tà huy phai
Thơ ta đau những đêm dài
Ðời ta cát bụi một đời phù sinh
Người ơi ta cảm ân tình
Cảm ơn ta đứng thụ hình hai vai
Buồn ơi ta cảm ơn người
Mười năm thơ cũng ngậm ngùi cố nhân

Ðọc thơ Khoa Hữu, để thấy thơ là động lực sống của một người luôn luôn muốn tâm sự những điều mà không thể không nói không chịu được. Dù đời sống đã qua một hướng khác và những ngày xưa cũ chỉ là qúa khứ sao vẫn vướng vất trong lòng. Chiến cuộc qua đi, nhưng những vết thương vẫn còn lại, những não nề chua xót vẫn chưa nguôi. Thơ Khoa Hữu, có khi là những bài bảy chữ đầy chất biên tái hay những bài lục bát chuyên chở bằng ngôn ngữ có phong vị dân gian tuy hơi có chất cổ điển nhưng lại tràn đầy tâm tư, chan chứa trao gửi. Thơ, không còn là ngôn ngữ kể lể tỏ bày mà chính là những giãi bày tâm tư, biểu lộ cuộc sống.

Viết trong ký ức những ngày chiến trận đã qua, những câu thơ ngang tàng hào sảng. Ở lúc hành quân vào mật khu Ba Thu, với ngôn ngữ và tính khí của người lính bộ chiến, Khoa Hữu viết. Chân thực, không màu mè, không lên gân anh hùng, đời sống ấy phải là những ký ức không phai.

…Khi trận mạc tiến theo đoàn xe sắt
sắt chảy như bùn đâu tiếc thân
tối ngủ đứng ngồi trong lỗ huyệt
sớm sớm vươn vai mừng thấy ta còn
khi dưỡng quân khề khà dăm ly đế
ngất ngưởng say ta học nói tiếng Miên
quên chữ thánh hiền quên con quên vợ
ta như than lem luốc đủ trăm miền
ta như thế hỡi những chàng du kích
sợ gì ngươi ta e sợ chính mình
quân trú Ba Thu hơn một tháng
ghẻ cóc mụn nhang lạ nước thay da
tim với óc hỡi ơi còn chết được
ngày lui quân xin xác gửi quê nhà.

Ðọc thơ Khoa Hữu, tôi mới hiểu được rằng nhà thơ ấy mặc dù sống ở trong nước nhưng nhất định không chịu đăng thơ hoặc xuất bản thơ trên đất nước mình. Ông chọn những tạp chí ở hải ngoại để gửi bài bởi vì ông hiểu được nếu cứ viết theo định hướng của nền văn học phục vụ chính trị ấy mệnh danh là văn học XHCN thì có lẽ thơ sẽ thành những câu vè không hồn. Và qua những bài thơ ấy được trân trọng của văn đàn hải ngoại, ba tập thơ đã được in từ những tấm lòng quý trọng liên tài.

Những năm của thập niên 90, nhà thơ Diễm Châu của nhà xuất bản Trình Bày và nhà văn Nguyễn Mộng Giác của nhà xuất bản Văn học đã in hai thi tập. Năm 2010, nhà xuất bản Thư Ấn Quán trình làng tập thơ “Nửa Khuôn Mặt” . Nếu nói ông là một người thơ lưu vong trong chính quê hương của mình thì có lẽ, đối với riêng tôi, một người đọc thơ, thì cũng có những điều chính xác. Thơ của ông, là những bước chân lui về quá khứ. Thơ của ông là tấm lòng hoài niệm, nhớ mãi về đời đã qua, về nơi chốn đã lạ. Thơ của ông, mang mang tấm lòng cố quốc, của một thời thế chia lìa, của một thời đại nhiễu nhương…

Thơ hoài niệm có lẽ là đặc thù của chân dung thơ Khoa Hữu. Thi sĩ đã sống trong một không gian thời gian lãng đãng của trí nhớ. In một tập thơ chỉ toàn những câu lục bát có lẽ là một thách đố bởi với một thể thơ đã từ lâu đời, dựng sẵn nhiều khuôn khổ, và dòng thơ hiển hiện nhiều ghềnh thác khó vượt qua. Thế mà, trong “ Nửa Khuôn Mặt”, vẫn tràn ứ những dòng lục bát, chảy trôi đi những ẩn ức thế thời. Thơ, có khi là một cách thế nói, để, cuộc sống còn một điều gì đáng nói, đáng nhớ lại, cần quan tâm. Thơ nhắc nhở. Tình quê hương. Thơ gọi về những tâm tình bạn hữu. Thơ mở ngỏ ra những cảnh đời và thơ khép lại những tân toan lịch sử. Thơ, gửi cho người và giữ lại cho mình. Một trời tâm sự. Một biển nỗi niềm…

Làm thơ cho “những nửa khuôn mặt”, có phải là âm vang từ cuộc sống trong thơ Khoa Hữu? Không, một cảm giác ngược lại. Thơ cho người đã chết và gửi đến cõi âm. Thơ làm cuộc sống hiện tại như nhuốm màu tang tóc và ở đó, cái bóng đen thời thế, cái tang tóc nhân sinh tràn đầy. Thơ như gửi theo niềm phẫn chí. Thơ gửi theo những eo sèo của cuộc sống không có ngày mai.

Như bài thơ nảy ý từ sau khi dự những đám tang của “những người muôn năm cũ” của một thời văn học đã qua. Những cái chết lạnh lẽo khác nhau. Những đám tang âm thầm của những người một thời bút mực tài hoa. Những Lý Hoàng Phong, Tú Kếu Trần Ðức Uyển, Lê Xuyên, …Khoa Hữu đã than trời trong câu chú thích “Ở đây, mai kia đâu còn ai đến tiễn biệt”

Về đây cửa ngục người nằm
ngọn nhang cháy lửa trăm năm đợi tàn
viếng người lòng kẻ khô khan
bàn tay khẽ nắm bàng hoàng ngón tay
tịnh không làm áo người thay
môi hôn chừ lạnh mê say bao giờ
trán còn sợi tóc bơ vơ
hàng mi chợt khép bên bờ âm dương
thản nhiên cái phút dị thường
chiếc thân còn ở linh hồn ở đâu
lễ người nến nhỏ giọt châu
chiều dưng mắt lạ đêm cau mặt nhìn.

Làm thơ cho một người bạn “Châu Trị là bút hiệu. Anh viết truyện ngắn nổi tiếng một thời. Ði học tập cải tạo ở quê nhà chị không chịu được nỗi cùng khổ, tự tử chết, để lại 6 đứa con thơ cho bên ngoại. Và anh được tha về.. Hơn nửa thế kỷ bạn hữu – chỉ còn một giot mưa ngâu tặng bạn”.

Thơ như có tiếng khóc ở bên trong, của một thời đại mà quanh quanh đất nước đầy những cảnh tình oan khổ, đầy những tâm sự nát lòng.

Ta về đốt sách tàng thư
giải oan khiên bóc lá bùa thời gian
hỏi ta đã trắng phong trần
hỏi em cũng bạc đôi phần áo xanh
mười năm ta mắt xây thành
mười năm em nỗi cỏ quanh chân ngồi
gió lên ngàn nước buông xuôi
áo da mặc rét đêm trời nhớ nhau
nhớ không lành giấc mơ khâu
em buông kim chỉ ta đau mấy hàng

Với “Một Tình Tiết Mới” để tưởng nhớ Ðồng Văn Khải, “khóa 4 Thủ Ðức. Giải ngũ. Không vợ con, sau năm 1975 về chết tại Thủ Ðức” Những cước chú ngắn gọn nhưng chuyên chở nhiều biến cố ở trong mà thơ cần giải mã

Ta vừa cắt máu ngón tay
nhẫn tâm tìm lại một ngày yên vui
con chim gãy cánh bên trời
tiếng kêu thành tiếng hót ngoài thiên thu
cám ơn em đã bất ngờ
lệ xanh trên ngọn cỏ mồ khóc ta…

Thơ Khoa Hữu có những địa danh của những vùng sông nước, những bến bắc, những con sông mà ở những thời điểm của cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 nhắc đến những chuyến ra khơi của những con thuyền vuợt biển. Tôi không biết có chủ tâm của tác giả “Nửa Khuôn Mặt” không nhưng cảm giác của tôi khi đọc những câu thơ Khoa Hữu lại nhớ đến những ngày tháng còn long đong ở quê nhà. Thí dụ khi tôi đọc “Một ngày qua bắc Cần Thơ” tôi nhớ ngay đến tâm tư của ngày chờ chuyến vượt biển, đau xót trong lòng với những chập chờn quá khứ. Tôi nghĩ chắc tác giả cũng có một chút gì tương tự với tôi.

Ta về tự vẫn sông sâu
vong linh làm ngọn sóng sầu trường giang
trầm mình trong nước giải oan
bèo mây từ biệt hợp tan đã chờ
tội tình một bến bắc xưa
tội tình cả nắng cả mưa giãi bày
lòng e chiều sợi khói bay
tưởng chân nhang cắm lên ngày mộ bia
ngàn năm dòng nước phân ly
ngàn năm đời vẫn còn nghe sóng cồn

Bài thơ viết năm 1976, có phải là một thời điểm của bắt đầu những chuyến tàu vượt biển ra đi?

Với Sài Gòn, ba trăm năm lịch sử có còn hiện hữu những cơn xao động, những bùi ngùi của một tâm thức luôn tiếc nuối những gì đã xa xưa nhưng còn đầy âm vang trong tiềm thức.

ta về mây phố về chưa
mắt trông chớp bể vai mưa đầu nguồn
về như sương khói hoàng hôn
lao đao cơn gió ngả buồn trăm năm
về nghe đường đá ăn năn
hàng cây sám hối nhà oan khuất người
ba trăm năm Sài Gòn ơi
bãi dâu cát lở đất bồi phù du
về ta một bóng thiên thu
áo che trời rộng lòng như sông này
môi đoạn tình uống chẳng khuây
một ly cố quận rót đầy oán sâu
về bôi mặt nhọ tìm nhau
Hỏi: trăng xưa khuyết
Hỏi: châu ngọc chìm

Với Hà Nội, một người sinh trưởng ở đó mà sao trong thơ Khoa Hữu lại vẳng “tiếng thưa tuyệt tình”. Tại sao, ngàn năm Thăng Long. Một quá khứ oai hùng từ thời lập quốc mà lại không được thi sĩ nâng niu? Có phải vì những lễ lạc linh đình bây giờ cũng không che phủ được những âm mưu thôn tính của đế quốc phương bắc?

Hà Nội ta, Hà Nội ai
đá trong lăng miếu nhạn ngoài ải quan
mắt nhìn theo cánh nhạn tan
đá còn ngậm tiếng thở than bốn mùa
hỏi ngàn năm đã nghe chưa
gọi ngàn năm dội tiếng thưa tuyệt tình
ngàn năm hoa cỏ dấy binh
ngàn năm mây nước viễn chinh không về

Thơ Khoa Hữu. Thơ hoài niệm. Thơ trong ký ức. Thơ của những ngày chinh chiến đã qua, của những đau đớn ray rứt không hết. Thơ của Ký Ức An Lộc. Của Trở lại chiến trường Xuân Lộc. Của Một Ðoạn Ðường 9. Của Bước chân trên đại lộ kinh hoàng. Của 30-04-2000 Về nghĩa trang Biên Hòa. Hay về Một cái Chết Vô Danh với cái cước chú thơ đầy những nét đau xót ngậm ngùi. Lần thứ I gặp nhau ở chiến trường Xuân Lộc. Anh là chiến binh. Lần thứ II ngồi xe lăn ở tổng y viện Cộng Hòa, anh là thương binh. Lần thứ III trên xe máy cày, chở xác anh về Long Khánh, tất cả đều tình cờ :

Tiễn người xưa chiếc xe lăn
Giờ xe nông giới buồn chăng đường về
Cỏ tai ương mọc bốn bề
Rừng sa cơ, núi ngồi mê, gió ngàn
Giết người ơi, giết dã man
Giết người ơi, vết thời gian lạnh lùng
Áo quan này chỗ tận trung
Nến, nhang, lửa, khói, bập bùng mặt nhau
Mặt người lạnh, mặt ta đau
Nỗi ta còn, biết gửi đâu quê nhà

Một bài lục bát khác nối dòng theo những bài thơ về mưa. Ôi mưa ở thành phố tan hoang. Mưa ở những nơi chốn buồn đau từ những thời gian chìm trong vô thức trong tâm cảm của một người chan chan tâm thức trong lòng. Thơ mưa, của những cơn mưa buốt xót. Ðêm mưa ở Ngã Bảy:

Mưa nghe cuối bãi đầu sông
về qua Ngã Bảy trắng dòng xe đi
phố nghiêng mưa tạt tiếng về
đường run lạnh khoác gió se nỗi hàn
nghe từ vô vọng mưa tan
trăm tay gõ xuống phím đàn phân ly
đêm chia tối đủ bốn bề
đêm che mặt thức áo che lạnh lùng
nghe tầng sấm sét không trung
chân đi hỗn loạn về chong mắt ngồi

và bài cuối Ðiếu văn cho một người cầm bút. Người ấy? Là ai? Là một trong những chúng ta? Hay là Khoa Hữu:

giận ta vuốt mặt u sầu
thương ta, thơ những dòng đau đã mềm
một thời như nhớ lại quên
một thời quên để nhớ lên từng ngày
mười năm ta vẫn còn say
nằm yên trong nấm mộ này nhìn ra
môi hôn người những vòng hoa
ta hôn lên ngọn nến ta hãi hùng
ta thằng gù dưới tháp chuông
con chim báo bão dặm trường trú mưa
thằng gù chim chết từ xưa
chuông rung lời nguyện gọi ta đất này
gọi ta ta lại về đây
trăm năm cỏ mọc lên đầy bóng ta
áo quan này mở nắp ra
trái tim ta vẫn còn ta thở cùng
ta quỳ hôn đất hưng vong
đời băng vầng lửa ta trong tro tàn

Thơ lục bát. Có phải là những khuôn khổ để gói ghém ngôn ngữ của nỗi đau dầu dãi từ trăm năm ngàn năm trước. Có khúc quen nhưng cũng có điệu lạ. Mấy ai làm được nỗi đau thành bất tử. Cho nên, ở một vài cung đoạn, thơ cũng làm trái tim người đọc nhói lên nỗi tự tình. Thơ, là chia sẻ, là trao cho nhau chút vị đắng nhân sinh. Và như thế, chắc chẳng ai còn cứ vấn nạn hoài thơ tuyệt cú hay không?

Nguyễn Mạnh Trinh
Nguồn: Tác giả gửi

===============

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét