VIỆT PHƯƠNG từ Cửa Mở đến Cửa Đã Mở
Dường như Việt Phương muốn tiếp nối “Cửa mở” bằng “Cửa đã mở”. Dường như ông muốn nhấn mạnh: Trước đây tôi đã mở cửa he hé, giờ đây tôi muốn mở cửa toang ra thì phải?
TỪ CỬA MỞ ĐẾN CỬA ĐÃ MỞ
ĐẶNG HUY GIANG
Những năm 70 của thế kỷ trước, khi còn ngồi trên ghế trường cấp 3 phổ thông 3A (tức THPT Việt Đức bây giờ), tôi đã được đọc tập thơ “Cửa mở” của Việt Phương do Nhà xuất bản Văn học ấn hành theo lối chuyền tay. Tôi đọc vì ở thời điểm ấy nó được coi là “sách cấm”. Tôi đọc vì tò mò. Tôi đọc vì cái máu hiếu kỳ của một người đang ở tuổi vị thành niên.
Đấy là lý do thứ nhất. Còn lý do thứ hai: Vì những vấn đề “đi trước thời đại”và những vấn đề Việt Phương đặt ra hơn là vì thật và ít nhiều đụng chạm đến những chuyện, những việc khá nhậy cảm. Những câu thơ kiểu “Ta đã nhìn thấy vết nhơ trên chín tầng mây”; “Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ/ Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ/ Đó là niềm tin, ý chí tự hào”; “Hãy mở của ra mà nghe đài địch/ Nghe nó chửi mà ta tin ở ngày mai”… dễ gây cảm giác gờn gợn.
Ngay từ ngày ấy, Việt Phương đã nhìn rất sâu vào cái bản chất phức tạp của con người. Ông đã bẻ chữ người ra thành nơi gừ đầy ẩn ý. Và theo ông, người chẳng qua chỉ là nơi gừ mà thôi. Tất nhiên, trong Cửa mở, Việt Phương không chỉ có những câu thơ như thế. Ông còn có những câu thơ khá thi sĩ, khá ngọt ngào và có nét nhân bản: “Ta đi yêu người ta yêu nhau/ Người ta cũng là ta khác đâu/ Gió ơi gió hãy vừa đủ lạnh/ Cho những lứa đôi chụm mái đầu”. Sự hấp dẫp của tập thơ còn nằm ở tinh thần của cửa mở khi tất cả còn chưa mở cửa và thật thông thoáng như bây giờ.
Trong những câu thơ trích từ “Cửa mở” từ trí nhớ của mình, hình như câu “Ta đã nhìn thấy vết nhơ trên chín tầng mây” bị nhìn nhận nặng nề nhất. Tưởng chỉ có vết nhơ ở dưới thấp, không ngờ lại có vết nhơ ở trên cao. Không ít người cho rằng nó còn mang thêm chức năng “ám chỉ”, chức năng “hai mặt” nữa. Còn những câu sau, nếu phân tích kỹ càng mới thấy chúng cũng chẳng đụng chạm gì lắm và chúng cũng chẳng gây “tai nạn” cho ai. Hai câu: “Trăng Trung Quốc trong hơn trăng nước Mỹ/ Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ” đơn giản chỉ để nói đến niềm tin một chiều, niềm tin cực đoan, niềm tin đóng kín.
Hai câu: “Hãy mở cửa ra mà nghe đài địch/ Nghe nó chửi mà ta tin ở ngày mai”, có thể hiểu theo một nghĩa rộng: Địch chửi ta là một việc rất bình thường của chúng và địch càng chửi ta càng nhiều càng chứng tỏ địch đang lúng túng, hoang mang, hoảng loạn và đang thua ta. Còn nếu hiểu chúng ở nghĩa hẹp, nhìn nó với con mắt thiển cận với một sự quy chụp nào đó thì lại khác. Bây giờ, khi đã trên 30 năm trôi qua, tôi vẫn nhớ lời một người hàng xóm nhận xét hai câu thơ trên theo cách hiểu của ông: Người ta đang cấm nghe đài địch. Nhà nào có ra đi ô đều phải dán vào ra đi ô dòng chữ gần như bắt buộc: Tuyệt đối không nghe đài địch. Nay lại bảo Hãy mở cửa ra…thì có khác gì cổ vũ cho việc nghe đài địch.
Hình như bi kịch lớn nhất của “Cửa mở” là bi kịch đi trước thời đại và nằm ở ngoài thơ thì phải?
Sau nhiều năm, Việt Phương lại xuất bản một tập thơ nữa: “Cửa đã mở”. Đây là tập thơ thứ hai của ông. Dường như Việt Phương muốn tiếp nối “Cửa mở” bằng “Cửa đã mở”. Dường như ông muốn nhấn mạnh: Trước đây tôi đã mở cửa he hé, giờ đây tôi muốn mở cửa toang ra thì phải?
Vậy khi cửa của Việt Phương đã mở toang ra, độc giả tiếp nhận được gì mới từ ông?
Trước hết, ta trân trọng ông ở sự say mê, hết lòng với cuộc đời. Nếu không chắc ông không thể hạ bút mà viết được những câu thơ hết mình như thế này: Ta uống cuộc đời vào hồn ta; Rạo rực êm êm nhựa trên cành/ Thơm/ thơm/ thơm/ Anh thành em cho em thành anh; Năm cũ qua nâng niu cái mới/ Cầm ngày mai trong tay/ Năm mới đến chắt chiu cái cũ/ Mang truyền thống dâng đầy/ Cho dẫu nếu hồn anh sắp cạn/ Xin nâng niu chắt giọt cuối cùng/ Nghiêng hẳn đời anh đi mà gạn/ Một giọt người rất sáng rất trong; Tôi muốn sống tất cả hôm nay dù phải mất ngày mai… Đây có thể coi là một phần thái độ sống của ông.
Bên cạnh đó, ông còn có những câu thơ triết lý về tình yêu: “Anh rất sợ trời xanh buồn đi mất/ Bóng đêm về lẩn khuất giữa lòng nhau/ Thật yêu thương xin đừng yêu thương thật/ Cho dạ hương ngây ngất mãi đêm đầu” và cả những câu thơ mang tính phát hiện. Ông đã nhìn thấy cái rất lạ trong cái không lạ mà bình thường người đời rất dễ bỏ qua: Anh chợt hiểu ăn là một việc làm đẹp biết bao; Mùa đông ta lại bắt đầu niềm tin/ Bây giờ qua vấp ngã nhiều phen/ Ta chưa biết rằng ta đã biết/ Nỗi nổi là nỗi chìm…
Đọc ông, tôi vẫn thấy ông thật thi sĩ một cách đầy trải nghiệm: “Hạnh phúc đến như cánh cò lận đận/ Rũ sương đêm trên bến nắng sông Đà”; “Một nhìn nhau đắm say hững hờ/ Vừa đủ giăng tơ lên trời biếc/ Có biết không hay là không biết/ Trọn đời mất biệt nhẹ nhàng sao/ Một cầm tay và một chiêm bao”; “Đi cho cuối đất cùng trời/ Đến nơi người thật là người với nhau”… Đây cũng là những khát vọng lớn trong ông.
Đâu đó, chúng ta vẫn bắt gặp những hạt sạn trong thơ ông. Đây là những câu thơ hơi nôm và ít chất thơ: “Say người tình/ Mình người vợ/ Nợ người nghèo/ Theo người tốt/ Cốt người thân/ Cần người bạn/ Ngán người lười”; “Đời như cơ chế thị trường/ Ngổn ngang pha trộn chán chường mê say/ Đời như toa chợ con tàu/ Dân nghèo chen chúc gục đầu nương than”.
Có cảm giác Việt Phương đã dành quá nhiều thời gian đầu tư vào việc đặt tên cho các bài thơ mà xao nhãng những việc khác (trên một trăm bài thơ ngắn trong Cửa đã mở đều có đầu đề là một từ).
Và theo tôi, điều đáng mừng nhất của từ “Cửa mở” đến “Cửa đã mở” là sự nhất quán của một hồn thơ, một nhân cách thơ.
ĐẶNG HUY GIANG
===========
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét