Nguyễn Khải – Vài kỷ niệm
Vũ Thư Hiên
“Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người”.
1
Yaroslavsky Vokzal là một ga lớn ở Moskva. Nó nối liền miền Đông nước Nga mênh mông với Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam cùng hệ thống, thêm Vương quốc Lào có phớt qua tí nước sơn xã hội chủ nghĩa.
Đứng ê càng trên ke mới thấy con tàu Bắc Kinh-Moskva lừng lững hiện ra, đèn pha sáng quắc, còi hú điếc tai, chậm một giờ.
Tôi nhận ra ngay dáng lộc ngộc của Nguyễn Khải trong đoàn người lỉnh kỉnh hành lý từ trên tàu bước xuống. Tôi chạy lại, ôm lấy anh. Tháng trước, ở Hà Nội, chúng tôi đã ngoắc tay hẹn gặp nhau ở Moskva. Ngoắc thì ngoắc chứ tôi không mấy tin lời thì thào với giọng quan trọng của Khải, rằng chuyến này chắc chắn anh sẽ được đi.
Tôi không tin là phải. Lão trượng Nguyễn Tuân cũng từng ghé vào tai tôi mà thì thào về một chuyến xuất ngoại. Vào những năm xa xưa ấy được phép ra khỏi biên giới là chuyện thiên nan vạn nan. Ấy là nói về cán bộ thôi, chứ dân thường chả ai phát rồ để đầu đơn xin xuất ngoại. Đi đã chẳng được, mà hậu quả thì không biết thế nào, xấu là cái chắc, chỉ khác nhau ở chỗ xấu nhiều hay xấu ít mà thôi. Tốt là hãn hữu, được đi là nhờ cái số. Ai không ngu cũng hiểu: đất nước mình là cái cũi, dân lúc nhúc bên trong, “trên” thả đứa nào biết đứa ấy. “Trên” là nói chung cấp duyệt cho phép đi, chứ “trên” cũng đủ thứ – tuỳ theo cấp bậc của người xin xuất ngoại, thấp là cấp tỉnh, có khi ở tận trên cùng – Bộ Công an, Bộ Chính trị.
Vì thế, người biết tin mình sẽ được đi dự một hội nghị quốc tế chẳng hạn thường chỉ để bụng chứ không dám hé răng. Nói ra miệng rồi mà phải ở lại thì ê cái mặt. Không hiếm trường hợp va li đã xách ra cửa, chân đã bước lên xe mà đùng một cái: hoãn! Hoãn là hoãn, có thể tạm, mà cũng có thể là không bao giờ. Chưa kể những lời ong tiếng ve ắt phải có nếu người tưởng mười mươi rằng mình được đi bỗng bị ách lại.
Một lần, mấy độc giả người Việt ở Paris mê tác giả của Chùa Đàn, Vang Bóng Một Thời đã mua vé mời Nguyễn Tuân qua chơi. Được lời như cởi tấm lòng, nhà văn mắc bệnh xê dịch vui lắm lắm. Nguyễn Tuân là đảng viên, mà đảng viên thì phải có ý thức tổ chức, ông phải báo cáo lên “trên”, xin cho ông đi. Ở tầm cỡ Nguyễn Tuân mà xin thì “trên” đây trên cùng, không còn cái “trên” nào cao hơn. Ông thì thào với tôi: các anh ở “trên” bảo ừ, được đấy, cũng hay đấy, ông nên đi Paris một chuyến cho vui.
Thế mà đúng hai ngày trước khi lên đường, chủ tịch Hội nhà văn Nguyễn Đình Thi đến tận nhà, ghé vào tai ông: “Các Anh Ấy bảo thôi, ông ạ. Đi bây giờ không có lợi”. Các Anh Ấy ấy là ai, không có lợi là thế nào, Nguyễn Tuân không cần Nguyễn Đình Thi giải thích. “Các Anh Ấy” đã phán thế là xong, là chấm hết, không có cách nào thay đổi.
Nguyễn Tuân đành vuốt bụng thoái thác lời mời ấy: “Tôi hồi này không được khoẻ. Thôi, để khi khác vậy”. Cái khi khác ấy rồi không bao giờ có. Rốt cuộc, văn gia họ Nguyễn đành mang xuống tuyền đài ước muốn được thấy Paris một lần. Bức điện xin kiếu được nhà nước đánh giùm, miễn phí.
Tôi lo Khải không được đi vì lý lịch – anh là con nhà quan.
Người nào ở miền Bắc Việt Nam thời ấy đều biết lý lịch là cái gì, nó quan trọng đến thế nào. Khải không giấu anh là con quan, lại là quan tuần phủ thì phải, tuy anh chẳng phải con chính thất. Khốn nỗi, anh được ông quan nuôi trong nhà, cho ăn cho học, không phải con quan là con gì.
Nhưng Khải đã đi được. Chỉ là tới nước anh cả trong “phe ta” thôi.
Không hiểu sao khi nhớ tới những kỷ niệm với Nguyễn Khải thì cuộc gặp gỡ này lại hiện ra đầu tiên. Cái đó hẳn có cái lý của nó. Thôi thì đã viết về Nguyễn Khải thì cứ viết, nhớ gì viết nấy, chẳng so đo lựa chọn chuyện này chuyện kia làm gì. Tôi không có ý định dựng chân dung một cây bút.
Kỷ niệm là kỷ niệm, có thiếu có đủ, có sai có đúng. Nhớ gì ghi nấy, vậy thôi.
Khải không nằm trong danh sách đoàn đại biểu Việt Nam đi dự Festival thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ sáu tổ chức tại Moskva. Khải không phải đoàn viên thanh niên, không phải sinh viên, anh được toà soạn tờ Văn nghệ Quân đội cử đi viết tường thuật.
Về tới khách sạn, Khải bảo tôi ngủ lại đấy để sáng mai dẫn Khải đi chơi thành phố. Tôi ngần ngại:
- Hỏi chúng nó một tiếng đã. Mình ở lại không tiện.
Kỷ luật cho đoàn viên nhiều: không đi khỏi khách sạn không báo cáo, không ra ngoài khách sạn một mình, không mua bán, không tiếp khách trong phòng.
- Kệ mẹ chúng nó, mình có phải đoàn viên đâu mà phải theo – Khải nói – Cứ ở lại.
Dẫn đoàn là hai tay tai to mặt lớn của tổ chức thanh niên. Trưởng đoàn là Vũ Quang, tôi không nhớ chắc. Phó là Ngô Vĩnh Viễn, một trí thức cao lớn, quan dạng, tiếng Tây làu làu, được đảng tín nhiệm, một ngoại lệ hiếm hoi. Thấy tôi ở lại đêm, mặt Viễn sa sầm, nhưng không nói gì. Có thể vì Viễn nể tôi. Chẳng gì chúng tôi cũng quen nhau từ Đại hội Thanh niên Cứu quốc năm 1950.
Đêm ấy tôi ngủ không ngon – hai thằng đàn ông nằm trên cái giường cho một người vừa chật vừa khó chịu – Khải ôm tôi suốt đêm như ôm đàn bà, tay lại hay mó máy. Người Nga thấy sẽ tưởng là hai thằng đồng tính.
Sáng sớm hôm sau tôi dẫn Khải ra quảng trường Đỏ, được thiên hạ quen gọi là Hồng Trường. Khải tiếc hai thằng không có lấy một cái máy ảnh để chụp vài pô kỷ niệm. Bù vào đấy, khi được tôi giải thích rằng trong tiếng Nga, cổ cũng như kim, chữ “hồng” (đỏ) chỉ có nghĩa là đẹp, là mỹ miều, chứ chẳng dính dáng tới cách mạng cách miếc gì hết thì Khải khoái chí. “Thế mà giờ màu đỏ được coi là màu của riêng cách mạng – Khải nói – Không màu nào được tranh chỗ của nó. Một thứ priorité (ưu tiên) độc quyền. Thối thế! ”.
Buổi sáng trời mát rượi. Chúng tôi húp vội món súp gà trên đại lộ Gorky để có sức tiếp tục lang thang trong dòng người tấp nập trên phố phường thủ đô nước anh cả phe xã hội chủ nghĩa. No nê con mắt rồi, Khải chợt nhớ ra, hối tôi dẫn tới Kuznetsky Most (phố Cầu Thợ Rèn). Đây là nơi duy nhất có nhiều cửa hàng bán sách cũ bằng tiếng nước ngoài. Nguyên Ngọc đã tới Moskva vài lần, có kinh nghiệm, khuyên Khải đến đấy ngay lập tức khi tới Moskva kẻo sau không có thời giờ.
Hôm ấy, Khải tiêu sạch số tiền được phát cho đoàn viên, còn lục túi tôi lấy thêm ít rúp nữa mới đủ mua số sách tìm được. Về đến khách sạn là Khải tót lên giường, nằm chềnh ềnh, giở hết cuốn này đến cuốn khác, đọc nhảy cóc. Cái cách đọc này rất Khải. Chỉ sau khi bị cuốn hút vào một cuốn nào đấy anh mới đọc nó thật kỹ.
2
Trước ngày khai mạc Festival, Khải kéo tôi ra chỗ vắng, im lặng một lúc, tần ngần một lúc, rồi bảo:
- Mình tính thế này: mỗi đại biểu được phát một huy hiệu, một thẻ. Cậu đeo huy hiệu, mình cầm thẻ, cậu tìm cách nhập vào các đoàn mà xem Festival, mình nằm nhà đọc sách. Có thẻ, mình không đói, nhà ăn ở ngay trong khách sạn.
Tôi ngớ ra:
- Sao lại thế? Cậu được phân công viết về Festival cơ mà. Cậu không xem thì sao viết?
Khải lạnh tanh:
- Mình không viết thì cậu viết. Miễn có bài là không ai trách được mình.
Tôi không hiểu tại sao Khải xử sự như thế, cả lúc ấy, cả bây giờ.
Hẳn đã xảy ra chuyện Ngô Vĩnh Viễn cự nự chuyện tôi ngủ lại, chuyện Khải đi chơi không báo cáo. Tức khí, Khải quyết định nằm nhà.
Cái tính lì, sau này tôi mới biết, là một tính cách rất Khải. Không bằng lòng cái gì, Khải câng câng ngoảnh mặt, không nói không rằng.
Sáng kiến của Khải thế mà hay – với huy hiệu trên ngực, tôi chặn xe bus chở đoàn Nhật trên đường vào sân vận động Lenin. Lái xe Nga tưởng tôi là người Nhật, các bạn Nhật tưởng tôi là người một đoàn nào đi lạc, lôi tuột vào xe, hô rầm rĩ “Druzba! Mir!” (“Hữu nghị! Hoà bình!”).
Một cái may bất ngờ khác – các bạn ở Xưởng phim Tài liệu trung ương Moskva mừng rỡ túm được tôi – một cameraman bất thần bị mổ ruột thừa. Với máy quay Konvas trên vai, tôi đi lung tung trong sân vận động quay cảnh quần chúng, muốn quay gì thì quay. Mấy người trong đoàn Việt Nam trợn mắt – sao tôi lại có mặt được nhỉ? Số là khi chọn đại biểu trong sinh viên đi dự đại hội thì tôi đang ở trong nước trong đoàn quay phim “Ánh Sáng Tháng Mười”, tôi không thể có tên.
Festival này to, có tới 131 quốc gia với 34.000 đại biểu, tham dự. Khách nhan nhản, nhiều đoàn khoác quần áo dân tộc đủ kiểu đủ màu sặc sỡ, đi đâu cũng gặp. Thành phố đêm cũng như ngày, đèn đuốc sáng trưng. Loa to loa nhỏ oang oang, ồn ào kèn trống, chỗ nào cũng có tiết mục nghệ thuật của các đoàn giới thiệu văn hoá nước mình, cái nào cũng đáng xem, cái nào cũng độc đáo.
Moskva trong những ngày ấy biến thành Babylon hiện đại, không có mâu thuẫn ngôn ngữ.
Tôi chạy như đèn cù, thế mà cũng chỉ xem được một phần những gì muốn xem. Mấy lần tôi rẽ qua khách sạn thăm bạn, thấy Nguyễn Khải vẫn nằm yên, sách ngổn ngang dưới chân giường.
Hay là thế, vui là thế, mà Khải bỏ, không xem, một anh chàng kỳ cục. Chèo kéo mãi Khải mới rời bỏ những cuốn sách để đi coi một buổi diễn của nhà hát múa rối Obraztsov. Nhà hát này không chỉ nổi tiếng ở Moskva. Nó nổi tiếng khắp thế giới.
- Hay! Nhưng bớt hay đi một tí thì tuyệt – Khải nhận xét – Những con rối quá khéo, quá tài tình, đến nỗi khán giả quên bẵng vở diễn, muốn vỗ đùi cái đét mà khen “Cái thằng nào con nào điều khiển những con rối ở hậu trường sao mà giỏi thế, sao mà tài thế! Lần sau đến đây mình phải xem vài buổi nữa mới đã. Rối đấy, giả đấy, nhưng còn hơn nhiều diễn viên người thật biết đọc thuộc lòng đài từ không cần người nhắc vở.
Hóa ra Khải còn là một khán giả khó tính. Nghệ thuật là cái vừa phải. Thiếu không được. Quá thì hỏng.
Festival rồi cũng bế mạc. Trước ngày đoàn Việt Nam về, tôi phải thức đêm để hoàn thành cấp tốc bài ký về festival thay cho Khải. Khải không đọc, thản nhiên đút nó vào túi dết, bước lên tàu, vẫy tay chào tôi.
Tôi ngạc nhiên về cách hành xử trong vụ này của anh. Ấy thế nhưng nhờ có nó, tôi mới hiểu thêm cái tính cách không giống ai của Khải.
3
Trưa hè.
Tôi đang nằm khàn ở nhà đọc Erich Maria Remarque thì nghe tiếng bước chân chạy nhanh trên thang gác. Nguyễn Khải đẩy cửa, xộc vào, mặt đỏ gay:
- Ê, dậy đi, thằng lừa đảo!
Tôi trợn mắt nhìn Nguyễn Khải.
Ngồi phịch xuống bên tôi, Khải cười toác:
- Ngạc nhiên hả? Cậu là thằng lừa đảo có hạng.
- Lừa ai? Lừa cái gì mới được chứ?
- Mình đọc Đêm Mất Ngủ của cậu. Cậu viết: “Những viên cuội tròn lẩn tránh chân anh và khi anh đi qua chúng lại chen chúc nhau nằm vào chỗ cũ”. Là cậu tả cái thằng mất ngủ của cậu lang thang ở trước viện bảo tàng lịch sử ấy… Đúng không nào?
- Ừ, thì sao?
- Còn thì sao nữa. Cậu bịp.
- Nói tiếp đi.
- Mình nhớ: trước viện bảo tàng không có sỏi. Mới nghĩ hay mình nhầm? Phóng ngay ra xem lại thì đúng phóc, ở đấy sỏi đâu mà sỏi, phẳng lì. Rõ to đầu còn mắc lỡm.
Hiểu ra, tôi bật cười:
- Đáng kiếp!
- Lão Hoàng Xuân Nhị phang cậu: “Vũ Thư Hiên phất cao ngọn cờ ấn tượng chống lại đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa” là đúng lắm.
Tôi không tưởng tượng Khải chịu khó đọc kỹ đến thế, nhớ từng câu.
- Mình không có ý định. Câu văn tự nó nhảy vào – tôi nói – Ấn tượng chủ nghĩa là một cái mũ chụp lên đầu kẻ viết phi chính thống. Chẳng có cái thòng lọng nào của bất cứ thứ chủ nghĩa nào tròng được vào cổ mình đâu.
- Thế mới phải! – Khải tán đồng.
Chúng tôi ồn ào kéo nhau đi “Lâm Toét”.
Đó là một quán cà phê nổi tiếng. Chủ quán tên Lâm, mắt có hơi kèm nhèm, nhưng không toét. Toét là biệt hiệu phóng đại, cho vui. Lâm Toét đặc biệt quý khách thuộc giới hoạ. Họ có thể đến quán ông uống cà phê, ăn sáng ghi sổ, bao giờ có tiền trả cũng được. Không có tiền thì mang tranh đến gán, Lâm Toét vui vẻ nhận, không so kè bẻ măng. Nhờ thế, ông có một bộ sưu tập tranh phong phú không kém gì Đức Minh, nhà sưu tập danh tiếng từ thời Pháp.
Tôi cũng khách quen của Lâm Toét. Tôi đến đấy ăn sáng, uống cà phê thường xuyên, nhưng là đi “che tàn”, người trả tiền là các bạn hoạ sĩ. Túi tiền của tôi không rủng rỉnh, tôi không có gì để gán cho Lâm Toét. Với Lâm Toét tranh có giá, văn thì không. Người hay bao tôi nhất là Nguyễn Sáng. Anh thường kéo tôi theo, réo ầm ầm dưới đường: “Đi Lâm đi!”. Từ tầng hai, tôi hét xuống “Đợi tí!”. Con người độc thân lôi thôi lếch thếch, sơ mi ngoài quần, ống thấp ống cao, ghếch xe bên hè, kiên nhẫn đợi.
“Đi Lâm đi!” là cách gọi tương tự ngày xưa thiên hạ hè nhau “Đi Trô đi”, tức là đi nằm bàn đèn ở tiệm ông chủ tên Trô. Nguyễn Tuân đã ghi lại cách bè bạn gọi nhau ấy, không nhớ ở tuỳ bút nào.
Uống cà phê xong, tôi và Khải bất ngờ được Lâm Toét mời lên phòng trên.
Vinh dự này chỉ có khi Lâm Toét đặc biệt cao hứng. Mà Lâm Toét chỉ đặc biệt cao hứng khi có được những bức tranh ông mới có, ông thấy là tuyệt đẹp, nhất thiết phải khoe.
Phòng trên của Lâm Toét hẹp, trần thấp, thiếu ánh sáng, nhưng đầy tranh – chúng được treo la liệt trên tường, thiếu chỗ thì cho tựa lưng vào tường. Lâm Toét có con mắt tinh đời trong thẩm tranh. Ông phân biệt rõ ràng tranh sáng tạo với tranh đường mòn. Lâm Toét không khi nào đánh giá tranh theo diện tích như XUNHASABA (tên tắt của công ty Xuất Nhập Khẩu Sách Báo) – tranh to thì giá cao.
Chúng tôi được uống cà phê tự tay Lâm Toét pha, được hút Gold Flake, thứ thuốc lá ngoại hiếm hoi không rõ xuất xứ, phải biết luồng mới mua được.
Lâm Toét ngồi im lặng, mắt hấp him dõi theo cái nhìn của khách. Thấy khách dừng lại lâu ở một bức tranh nào đó, gật gù, nghiêng ngó, là ông sướng.
Ra về, đang đạp chậm bên tôi, Khải đột ngột lái vào vỉa hè, buộc tôi phải dừng theo.
- Làm tí chè chén cái đã.
Ngồi ở quán nước vỉa hè đầu đường Tràng Tiền rẽ sang phố Phan Chu Trinh, Khải vừa thổi chén trà nóng hổi trên tay, vừa lơ đãng nhìn người người qua lại, trầm ngâm:
- Này, cậu nghĩ thế nào? Người ta sai, hay người ta ngu, khi bắt chúng ta nhất nhất phải tuân thủ những nguyên tắc sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa?
Tôi im lặng. Như mọi người, tôi ngại, tôi tránh chuyện chính trị và mọi thứ dính dáng tới nó. Hiện thực xã hội chủ nghĩa, với tư cách đường lối, phương pháp sáng tác, là thứ thời thượng, được trương lên như ngọn cờ dẫn đường cho văn nghệ sĩ. Gắn hai chữ chủ nghĩa vào đấy, nó không phải chính trị còn là cái gì.
Tôi còn ngại Khải nữa. Dù sao thì Khải cũng là nhà văn đảng viên, là người của đảng, còn tôi đã không ở trong đảng thì chớ, lại còn là kẻ bị tình nghi không chịu tuân theo đường lối của đảng. Chả thế mà khi ghi danh ra đảo Cồn Cỏ thời chiến tranh, người ta cho Khải đi, nhưng tôi bị gạt ra ngoài. Hẳn họ sợ nếu Cồn Cỏ bị chiếm thì tôi sẽ theo Mỹ.
Khải tiếp tục triết lý:
- Hiện thực là hiện thực, phải không nào? Không có hiện thực xã hội chủ nghĩa thì Balzac vẫn sáng tác, vẫn sống cho tới giờ. Không thể hiểu được người ta dính cái chủ nghĩa vào đấy làm gì. Mà cái nhà ông Gorky viết được Trái Tim Danko với Bà Lão Izerghin hay không thể tả, cũng tán thành nó mới kỳ chứ.
Tôi thận trọng:
- Mình may mắn, chẳng được chủ nghĩa nào ngó đến – tôi nói – Viết, theo mình nghĩ, chẳng qua là vẽ vào giấy điều mình muốn nói, sao cho nó có hình hài, để mình thấy được nó và người khác cũng thấy được nó, chung quy chỉ là sự chia sẻ tâm tư không nói ra không được. Không biết ở cậu thế nào, chứ với mình nó đơn giản là thế, không hơn. Mình viết không cần đến chủ nghĩa.
Lại chủ nghĩa rồi, dù là chủ nghĩa văn chương, tôi né. Tôi không thích bất cứ chủ nghĩa nào. Người sở hữu chủ nghĩa này nhìn người mang cờ chủ nghĩa kia là kẻ thù. Và lăn xả vào nhau, choảng nhau chí chết, chỉ để chứng tỏ lẽ phải thuộc về mình.
Không phải tôi không tin Khải. Nhưng tôi phải giữ mình. Như mọi người, vào cái thời đầy hiểm hoạ ấy.
- Xem tranh Bùi Xuân Phái mình hiểu thêm: cái quan trọng số một của nghệ thuật là nghệ sĩ phải nhìn sự vật bằng con mắt của mình, thể hiện nó theo cách của mình. Anh không thể nhìn bằng con mắt vay mượn – Khải không dừng được cơn bùng nổ triết lý – Nói thật: trong lĩnh vực hội hoạ sự hiểu biết của mình là zero. Mình không biết và cũng chẳng hiểu cái đẹp của các thứ trường phái lập thể, nguyên sơ, dada, dã thú, vị lai là cái cóc khô gì. Cái mình biết là sức mạnh của nghệ thuật không ở cái gì khác ngoài sự phải gây được ấn tượng, để lại ấn tượng trong người đọc, người xem. Bùi Xuân Phái đem cái ấn tượng cá nhân lên khung vải, bằng màu sắc, bằng đường nét, gây ra một ấn tượng phái sinh mạnh mẽ có sức lan tỏa không cưỡng nổi. Mái nhà Hà Nội đâu có xiêu vẹo, nhấp nhô đến thế, đâu có màu nâu đậm đến thế, phố xá đâu có đìu hiu đến thế. Nghệ sĩ trước hết phải có tình yêu với cái mình miêu tả. Tình yêu phố xá, bến sông, cánh đồng, bầu trời… cũng là tình yêu chứ, sao không? Gọi Bùi Xuân Phái thuộc trường phái nào cho đúng? Ấn tượng đi, được chứ? Mà thôi, cũng giống cậu, mình chả chơi cái thói ghép nghệ sĩ vào chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ. Nghệ thuật là nghệ thuật. Làm chó gì có thứ nghệ thuật phản ánh sự vật “trong chiều hướng phát triển của nó” như cái hiện thực xã hội chủ nghĩa ấm ớ kia đòi hỏi. Theo cái chủ nghĩa ấy mà viết thì nhà văn phải kiêm thầy bói để đoán sự vật sẽ là như thế nào trong tương lai. Mà phải là tương lai trong cái chiều hướng phát triển tích cực kia, khốn nạn là thế. Dễ bói nhầm lắm.
Về sau, cũng là phải về sau kia, nhớ lại những mẩu tâm sự vụn giữa hai chúng tôi, Nguyễn Khải cho tôi thấy một Nguyễn Khải khác với Nguyễn Khải trên văn đàn, nơi Nguyễn Khải được nhìn nhận như một nhà văn “lãng mạn cách mạng” với niềm tin sắt đá vào một tương lai sán lạn của chủ nghĩa xã hội. Và những câu nói ngược với niềm tin mà tôi được nghe Khải nói ra, xét cho cùng, chỉ là sự bộc bạch những suy tư không thể không nảy ra trong một cái đầu thông minh.
4
Một lần khác, sau khi đọc truyện ngắn Ghi Chép Bên Phà của tôi, Khải bảo:
- Cậu có một cái tài – ấy là trong bất cứ hiện tượng nào, sự vật nào, cậu cũng nhìn thấy, cũng tìm ra mặt tốt trong đó. Tớ thì ngược lại – tớ nhìn thấy cái xấu trước đã. Rồi tớ có viết về cái xấu ấy hay không là chuyện khác.
Khi nào có bầu tâm sự, hoặc buồn phiền, thì Khải đột nhiên tìm tôi, cố ý tìm, chứ không phải ngẫu nhiên đến. Và không cậu tớ nữa, mà ông ông tôi tôi, cứ như thể muốn gây sự.
Ghi Chép Bên Phà chưa từng xuất hiện trong nguyên bản tiếng Việt. Nó được in thẳng bằng tiếng Pháp trong một tập truyện ngắn của nhà xuất bản ngoại văn. Việc Khải đọc nó đối với tôi là chuyện bất ngờ. Trong số bạn bè cùng thế hệ, tôi biết hai người rất chịu khó đọc, đọc nhiều nhất, để trở thành uyên bác nhất, là Nguyên Ngọc và Nguyễn Khải. Bên cạnh hai trái núi ấy, tôi là con chuột.
Ghi Chép Bên Phà là chuyện một anh trưởng bến trong thời gian chiến tranh ác liệt đã vượt mọi quy tắc, dám cho một chuyến xe không thuộc bất cứ dạng ưu tiên nào được đi trước cả một đoàn xe ưu tiên đang xếp hàng dài chờ sang sông. Nó là chuyến xe chở búp bê và sách vở cho học sinh vào vùng đang có chiến sự.
Gần Nguyễn Khải, tôi hiểu ra nét đặc thù trong cách nhìn của anh.
Con mắt mỗi người do trời sinh. Hoặc do hoàn cảnh xã hội tác động vào quá trình trưởng thành. Chuyện này khó lý giải. Tôi từng gặp những người có xu hướng nhìn thấy phần xấu ở người khác trước khi biết đến phần tốt. Theo tôi, họ là những người không may. Với cái nhìn ấy, họ để mất rất nhiều cái đáng lẽ họ có được, tình bạn chẳng hạn. Tôi không khẳng định Khải là một người như thế, nhưng hao hao thế có lẽ đúng. Khải ít có bạn thân, theo tôi biết. Tình bạn giữa hai chúng tôi là thế nào tôi cũng không dám nói chắc – thân không thân mà sơ cũng không sơ, hoặc lúc thân lúc sơ, khó xác định. Giữa đám đông anh có bộ mặt khác – đàng sau nụ cười vô nghĩa với bất cứ ai và với mọi người, là một cái gì đó không thể biết, dưới cử chỉ vồ vập kia rất có thể là tâm trạng lạnh lùng.
Khải hay tìm tôi để tâm sự là có thật. Trong những lần gặp gỡ ấy, tôi biết một Khải không màu mè, không vờ vĩnh. Những cuộc gặp như thế không bao giờ có thể biết trước, Khải đến như một cơn gió, ào tới rồi ào đi. Anh đến với tôi có lẽ vì tôi là người chịu chuyện, với tôi anh có thể trút bầu tâm sự. Anh nghĩ tôi hiểu anh hơn người khác chăng, tôi không dám chắc. Nhưng điều Khải biết chắc là tôi không có thói đưa chuyện. Nói với tôi anh không cần phải thận trọng. Vào thời ấy mọi người đều sợ kẻ đưa chuyện, kể cả kẻ đưa chuyện vô tâm. Mọi lời nói qua nói lại vô tình bay đến những cái tai chăm chú dễ mang đến tai vạ. Anh cũng biết sợ.
Cái đặc điểm nhìn thấy cái xấu trước cái tốt, người tinh đọc anh vẫn thấy. Trong những tác phẩm của mình, thỉnh thoảng anh lại điểm vào chân dung nhân vật chính diện vài nét không ra gì. Khải viết theo thời, là điều ai cũng biết. Nhưng anh không đừng được để thỉnh thoảng lại lộ ra cái mà anh thấy. Chính anh về sau cũng thú nhận: “Cái buồn cười là sự trái nghịch trong cùng một người, kẻ vô luân nói chuyện đạo đức, tên ăn cắp dạy dỗ phải bảo vệ của công, người hống hách lại là tên nịnh bợ bậc nhất”.
Viết về vùng Thiên Chúa Giáo, Chu Văn có “Bão biển”, Nguyễn Khải có “Xung đột”, “Mùa lạc”. Bão Biển của Chu Văn bị người ta bỏ quên, Nguyễn Khải được giới phê bình khen lấy khen để. Biết tôi trong thời thơ ấu sống trong một làng công giáo toàn tòng, anh muốn tôi nhận xét.
- Ông tả hay – tôi nói – Nhưng đúng thì không. Chẳng có người đi đạo nào cứ mở miệng là kêu Chúa như ông viết. Ông không thể không biết trong Mười Điều Răn thì điều thứ hai là: “Chớ kêu tên Đức Chúa Lời vô cớ”.
- Ông tưởng tôi không biết à? Phải tả thế mới được – Khải nheo mắt trong nụ cười tinh quái – Để sau này người ta phán cho một câu: “Chẳng biết đếch gì về đạo Chúa cũng viết”. Để cho người ta nhìn ra cái sự viết theo thời nó thế nào.
Hiểu được cái láu cá của anh chàng này thực không dễ.
Một lần khác, tôi thấy cái nhìn xấu trước, tốt sau của Khải.
- Ông có thấy Thanh Tịnh trả tiền lần nào khi đi với chúng mình chưa? – dắt xe ra khỏi nhà hàng Phú Gia ở Bờ Hồ sau một chầu bia có mặt Thanh Tịnh, Khải nhận xét – Chưa, phải không nào?
Tôi ngỡ ngàng:
- Ờ…, quả có thế. Mình không để ý.
Khải cười hì hì:
- Ông là thằng lơ lửng trên mây, ông chẳng để ý đến cái đếch gì hết. Ông khoái viết cái ông nghĩ ra, ông bịa ra, ông không chịu chú mục quan sát cái chỉ riêng ông thấy. Mà ông thấy ít lắm, nói ông đừng giận.
- Ông tinh, tôi công nhận.
- Tay này chúa ăn chạc, uống chạc.
- Ai cơ.
- Tôi đang nói về Thanh Tịnh mà.
Nhận xét của Khải sao mà lặt vặt, sao mà ác.
- Làm gì đến nỗi thế – tôi nói – Ông ấy cũng vô tâm thôi.
Chúng tôi thường có những bữa tụ hội tình cờ, tan cuộc thì một người nào đó sẽ trả tiền cho cả bọn. Người nào đó ấy là người vừa lĩnh nhuận bút một cuốn sách, hoặc một bài báo. Túi chúng tôi thường rỗng, mọi người đều rách như nhau trong một xã hội cào bằng, nhưng chúng tôi sống hào sảng, không keo kiệt.
- Tại anh em mình tranh trả trước đấy chứ – tôi nói – Đàn em trả cho đàn anh, có sao.
Nguyễn Khải nhìn vào mặt tôi mà cười tiếp.
Nụ cười chê bai, nụ cười khinh khi, ra cái điều tôi ngây thơ, tôi ngớ ngẩn. Nụ cười ấy là cái tôi không thích ở Khải. Mà chẳng phải mình tôi.
5
Tôi có một ông bạn văn già, tiên phong đạo cốt, khinh và ghét Nguyễn Khải lắm:
- Anh em mình chẳng thằng nào bén gót nó. Này nhé: khi còn sống nó được đảng tin cậy, chiều như chiều vong, viết cuốn nào in cuốn ấy. Chẳng bù lũ chúng mình. Nó còn hèn nữa. Anh em bị đánh, nó không hó hé nửa lời.
Vơ tôi vào với ông trong hai chữ “chúng mình” là ông chiếu cố. Ông có sách in, tuy không nhiều. Về tiếng tăm. ông thua xa Nguyễn Khải. Các nhà phê bình lặng lẽ gạt sách của ông sang một bên. Tôi nói ông chiếu cố chơi với tôi là ý này: tôi hoạ hoằn lắm mới được đăng một truyện ngắn trên báo, còn ông là người có sách, sách có gáy. Văn của ông không công cũng không phạt, như vị cam thảo trong thuốc bắc, ông viết chuyện người tốt việc tốt, bút pháp trơn tru, mượt mà, phải tội hơi dây cà ra dây muống. Để in ông, các biên tập viên không mất công săm soi. Đã là nhà xuất bản thì phải có sách ra, sách của ông tiện lợi, sách của ông không có vấn đề, không đụng đến ai, không đụng đến cái gì không được phép đụng. Người như ông nhiều. Người khác ông ít. Người khác ông hoặc bị đánh cho bầm dập, bị dìm xuống bùn, hoặc tìm cách giấu mình trong quên lãng, giả câm giả điếc. Trong việc xuất bản người ta sợ nhất thứ văn nhiều ẩn dụ, mọi câu chữ đều có thể suy ra sự nói cạnh nói khóe, được các nhà điểm sách bảo hoàng hơn vua sẵn sàng khoác cho cái tội “biểu tượng hai mặt”. Săm soi kỹ là thế, mà thỉnh thoảng nhà xuất bản này nhà xuất bản khác vẫn bị đánh, bị thu hồi sách vì mất lập trường. Lập trường là thứ luôn luôn bị đánh mất ở mọi cơ quan nhà nước, trong mọi công tác, nhưng với nhà xuất bản thì nó là đại họa.
Tôi cũng nghĩ như ông – đảng không tin Nguyễn Khải, không yêu Nguyễn Khải còn tin ai, còn yêu ai?
Hoá ra sự đời không thế. Sự đời rắc rối hơn nhiều.
Tôi vào tù. Trong tù người ta hỏi tôi đủ thứ: ai, ở đâu, làm sao, thế nào? Trong một buổi hỏi cung, câu chuyện lan man tới lĩnh vực văn chương, viên chấp pháp già đột nhiên đặt câu hỏi:
- Anh chơi với Nguyễn Khải, anh thấy anh ta là người thế nào?
Tôi nhún vai:
- Còn thế nào nữa? Đó là người của đảng, hoàn toàn. Người như Nguyễn Khải mà đảng còn nghi ngờ sao?
Viên chấp pháp ngả người, cười khẩy:
- Cho đến nay thì chưa. Nhưng cảnh giác thì có, bao giờ cũng có – văn nghệ sĩ các anh là lũ sáng đầu tối đánh, nói chung là không thể tin được. Anh thấy Nguyễn Khải có gì đáng để anh báo cáo với cơ quan an ninh không? Quan điểm khác với đảng lộ ra trong những lời tâm sự chẳng hạn…
Tôi lắc.
- Cứ nói, nếu thấy có. Thành khẩn là điều chúng tôi muốn nghe ở các anh. Nó cũng là điều quyết định anh ở đây lâu hay mau.
- Về Nguyễn Khải tôi chẳng có gì để nói.
Người nhà nước nhìn chòng chọc vào mặt tôi, lại cười khẩy:
- Anh không nói cũng chẳng sao. Anh không nói sẽ có người khác nói. Chúng tôi có trăm tai nghìn mắt, chúng tôi biết hết. Chẳng có gì lọt qua mắt cơ quan an ninh chúng tôi. Nói chứ?
Tôi không hiểu y còn muốn gì nữa ở tôi:
- Tôi không có gì để nói về Nguyễn Khải. Nếu có cái cần phải nói thì đó là: cơ quan an ninh các người chỉ tin ở chính mình, ngoại giả ai cũng là kẻ đáng ngờ.
Dường như thấy mình đi quá xa, y chữa:
- Tin thì chúng tôi vẫn tin. Tin, nhưng có giới hạn. Nói để anh biết, loại như Nguyễn Khải không thể ở trong cơ quan chúng tôi lấy một ngày. Tin là tin thế đấy. Anh ta sẽ bị loại ra đầu nước.
Nhìn vẻ mặt ngơ ngác của tôi, y nói thêm:
- Ngay cả Nguyễn Đình Thi cũng vậy.
Nguyễn Đình Thi đang là chủ tịch Hội Nhà văn. Trước khi bị bắt tôi còn tản bộ với anh ở đường Bà Triệu. Chúng tôi nói chuyện nhiều, chuyện văn, chuyện đời, không chính trị. Chẳng lẽ do tôi bị theo dõi mà cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên ấy đã làm anh mất điểm với đảng của anh, anh cũng bị nghi ngờ?
Thì ra trong chế độ công an trị, người ta chỉ tin chính họ mà thôi. Mà cũng có thể còn hơn thế – họ cũng chẳng hoàn toàn tin nhau.
Trở về xà lim, tôi buồn rượi.
Khi bọn chấp pháp ép tôi phải nói ra những gì chúng muốn khai thác ở tôi về những người mà tôi có quan hệ quen biết, từ phó chủ tịch nước cho tới các quan chức lớn, các văn nghệ sĩ, thì đó là dấu hiệu rất xấu – tôi khó lòng ra khỏi nơi này.
6
Năm 1981 hay 1982 không nhớ, tôi đến thăm Nguyễn Khải ở đường Nguyễn Tất Thành. Nhà không to, không bé, nhưng là nhà riêng, không chung chạ với ai. Vào thời gian ấy nhiều cán bộ được phân nhà. Nhà được phân thường là của người vượt biên để lại. Cơ quan nào phân cho anh tôi không biết, không hỏi. Có thể là quân đội, mà cũng có thể là cơ quan đảng, là ủy ban, là sở nhà đất, hoặc do người được phân nhượng lại. Cái sự có nhà riêng linh tinh lắm, rối rắm lắm – đôi khi chỉ là nhờ những mối quan hệ ruột thịt hay bạn bè, hoặc bằng cách nào khác, chẳng thể nào biết, chẳng thể nào tưởng tượng ra. Căn phòng anh tiếp tôi tuềnh toàng, sàn gạch hoa nhớp nhúa, đồ đạc cũ mèm.
Chúng tôi đang vui chuyện thì nghe tiếng trẻ con léo nhéo ngoài cửa. Khải đứng lên:
- Ông ngồi chơi. Mình bán mấy viên đá cho tụi trẻ – anh nói, với một chút bẽn lẽn, ngượng nghịu – Nhanh thôi.
Tôi đợi. Khải chạy đi lấy cái rá và xô nước, mở cái tủ lạnh to đùng, lấy ra những cái cốc nhôm, nhúng vào xô nước, thảy những cục đá vào rá, rồi mở cửa ra ngoài.
Lát sau, anh trở lại,một tay thọc tiền lẻ vừa thu được vào túi quần:
- Vẫn phải làm lặt vặt một chút để cải thiện, ông ạ – anh cười bẽn lẽn – Chúng mình đang nói chuyện gì ấy nhỉ?
Tôi ái ngại nhìn Khải. Tôi không ngờ được chứng kiến cảnh vừa rồi. Nó là chuyện bình thường với mọi gia đình cán bộ bình thường. Hồi ấy đá cục là một mặt hàng bán chạy, được nhiều nhà làm.
Về sau này Khải đã có cuộc sống khá hơn trước nhiều, khi những bài báo, những truyện ngắn ở anh được trả những khoản nhuận bút cao ngất ngưởng, không nhà văn nào sánh được. Ấy là nghe anh em nói thế.
Hôm ấy tôi rất muốn kể cho Khải nghe điều tôi được nghe từ miệng viên chấp pháp. Nó là lời nói thật, tôi tin. Nó cũng là lời khẳng định cái nhìn của đảng đối với văn nghệ sĩ. Là cái nhìn bình thường của chủ nhà với đầy tớ.
Nhưng tôi đã giữ cho nó không buột ra. Tôi e làm Khải đau.
Tôi lầm. Sau khi đọc “Đi tìm cái tôi đã mất” tôi mới hiểu Khải không phải không biết. Nhưng anh đã giữ kín những gì mình thấy, che khuất chúng dưới màu hồng của những dòng tụng ca.
Nguyễn Khải là người có tài. Tài là cái không chịu bị chìm lấp. Nó đòi được biết đến, đòi được phơi mình dưới ánh sáng mặt trời. Với người này là toán học, người kia là hội hoạ, không trừ cả nghề chiêm tinh. Khải có con mắt quan sát sắc sảo, có tài viết ra những gì mắt anh thấy. Anh đã chiều theo cái tài của mình để cho nó được thiên hạ biết đến rằng nó có mặt. Anh viết, bắt đầu bằng những bài báo tường, rồi báo giấy, rồi những cuốn sách. Anh sinh ra trong một thời đặc biệt khe khắt với mọi sản phẩm chữ nghĩa. Mọi thứ viết đều phải nhất nhất tuân theo ý người cai trị xã hội. Viết khác ý nó thì nó đập cho kỳ chết. Anh muốn phô cái tài của mình thì anh phải làm ra những cái mà nó muốn. Thế là người đọc có một nhà văn Nguyễn Khải như ta biết. Một thằng nịnh, một thằng hèn, một văn nô, như nhiều người nghĩ.
Khải thèm được viết để chiều cái tài thiên phú. Dần dà cái sự thèm ấy trở thành một bản năng được cấy ghép vào người. Nói cách khác, nó là một thứ ma tuý, không có nó không sống được. Đã bập vào nó khó dứt ra lắm. Khải đã bập vào, đã vật vã, đã không dứt ra được. Mãi cho tới cuối đời.
“Đi tìm cái tôi đã mất” đến với tôi khi Khải không còn.
Tôi đã ở rất xa, cả quá khứ lẫn địa lý. Với bài viết này Khải bộc bạch những suy nghĩ được giấu kín trong lòng. Không thể tưởng tượng nổi nhà văn được coi là con yêu của đảng lại có thể nói toạc về đảng của mình đến thế này: “Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ…”
Người ta thường nói về “cái quan định luận”. Khi chiếc đinh cuối cùng được đóng xuống tấm ván thiên cho một kiếp người, chúng ta mới có thể, mới có quyền nói về người đã khuất. Nguyễn Khải đã nằm yên dưới ba tấc đất. Mọi điều thiên hạ bình phẩm về mình anh chẳng còn biết, chẳng còn quan tâm. Chúng ta sẽ phải nói về anh, như sản phẩm của một thời thế nào đây, cho đúng? Tôi không có câu trả lời cho câu hỏi này. Nói thế nào mới phải, mới công bằng đây? Cho anh, và cho cả một thế hệ cầm bút.
Chẳng lẽ Nguyễn Khải không để lại được chút gì cho lớp người sau anh? Chẳng lẽ chúng ta không rút ra được bài học nào từ Nguyễn Khải? Chí ít thì cũng ở văn chương, bút pháp.
Nói về một con người sao mà khó thế!
“Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế”. Và “Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người”.
Khái quát được đến thế, không một nhà văn Việt Nam nào đã làm được.
Không sự ly khai nào với đảng cộng sản có thể rốt ráo hơn.
Paris, 2015
VŨ THƯ HIÊN
============
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét