Thứ Năm, 21 tháng 4, 2022

đọc thêm (2) " phỏng vấn nhà văn, nhà báo Thanh Thương Hoàng " / Phương Duy phỏng vấn / tuần báo Việt Tribune số 22 & 23 ] -- tản mạn văn chương/ thế phong ( 22/ 12/ 2015)

 


Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015



                            phng vnhà văn,
           nhà báThanh Thương Hoàng


                                                        Phương Duy 
                                                            thực hiện


                                                     Thanh Thương Hoàng
                                            [i.e. Nguyễn Thanh Chiểu 1930 -   ]
                                                                                         
                                         (photo: You Tube)



Hỏi : - Từ khi  bắt đầu làm báo, [anh ]viết [được] bao nhiêu tác phẩm?

Trả lời:  Tôi bắt đầu viết từ 1953 ở Hànội.  Từ đó tới nay đã cho xuất bản 12 truyện ngắn + truyện dài.

    tác phẩm đầu tay, cuốn 'Cánh hoa mùa loạn',dày hơn 200 trang, xuất bản ở Saigon vào năm 1955.

    có 1, 2 cuốn viết dở dang + môt vài phóng sự tiểu thuyết đăng dở dang trên một số nhật báo, tuần báo. ( không in thành sách).

   sau 1975, bị bắt [đưa đi cải tạo] ; tất cả sách vở, bản thảo, tài liệu đều bị tịch thu -- khi đi tù về, tôi bỏ luôn, không viết lại. 

   Tôi có viết một truyện phim; nói về thân phận hẩm hiu, đau thương, nhục nhã của một cô gái mang 2 dòng máu Việt, Mỹ -- năm 1985 đi tù về, viết tiếp; hòan tất được tập 1, hết hứng; tới nay, bản thảo vẫn nằm trong hộc bàn; vì chưa có 'ngài' đạo diễn nào đoái hoài tới để thực hiện thành phim.

    kể ra trong 20 năm, từ 1953 tới 1975, viết chưa được tới 10 cuốn sách; quả là ít ỏi, đối với một người cầm bút chuyên nghiệp như tôi.  Sở dĩ có tình trạng này; vì từ 1964 tới 1975; tôi dành trọn toàn thời gian cho việc làm báo, viết báo --  hoạt động trong 'Nghiệp đoàn Ký giả'hơn 10 năm trời -- tôi không sáng tác được một truyện ngắn nào; mặc dầu tôi cũng rất nặng lòng với ' cô nàng văn chương'.

      Quả thật, 'nghề báo đã giết chết nghiệp văn'; như nhà thơ Hà Thượng Nhân sau khi đọc hết cuốn truyện dài 'Tiến sĩ Lê Mai', đã tỏ ý tiếc cho tôi về việc này.

Hỏi :  - Trước 1975, nghề cầm bút ( nói chung: làm báo, viết văn) có nuôi sống nổi người viết+ gia đình?  người cầm bút có phải làm thêm nghề nào khác.

Trả lời:  Phải phân biệt rõ viết văn + viết báo là 2 'nghề' khác nhau; nếu có thể gọi viết văn là một  'nghề'.  

       theo tôi, viết văn không phải là một nghề ; mà là cái nghiệp, cái duyên nợ văn chương.  Những người viết báo chuyên nghiệp trước 1975; đa số đều có mức lương trung bình; đủ sức nuôi sống mình + vợ con.  Tôi không thấy anh nhà báo nào than thở đói rách, trừ trường hợp báo bị đóng cửa, thất nghiệp.  Những nhà báo tện tuổi làm cho  các báo lớn; hoặc các hãng thông tấn nước ngoài, có một mức sống tương đối khá cao; có nhà, có xe hơi riêng, hay ít nhất, cũng có một cái Vespa.  Còn với những người viết văn; trừ một vài trường hợp cá biết, ăn khách; còn đa số đều là 'nghiệp dư'.

      phải có một nghề nhất định; như công chức, làm thương mại, hay dạy học v.v... ; lúc nào nhàn rỗi thì viết văn gửi đăng báo; hoặc, đưa nhà xuất bản in; coi như 'làm chơi'; và, cũng không' ăn thiệt'.( vì nhuận bút một bài văn, một cuốn truyện không cao lắm).  Tuy nhuận bút không cao, nhưng có bài đăng là có tiền nhuận bút; không có chuyện ' viết chùa'-- người viết dù mới tập sự; hay ,chưa nổi danh cũng được trả nhuận bút đàng hoàng.

Hỏi:  Trong xã hội Việtnam trước 1975, người làm báo, viết văn có được coi trọng không ?

Trả lời:  Câu này tôi có thể trả lời anh ngay; không cần suy nghĩ. Là những người cầm bút ( viết văn, làm báo) đều được tất cà trong xã hội thời đó coi trọng.  Tuy không còn được quý trọng như thời Tự lực văn đoàn; nhưng không một ai xem thường, coi khinh người cầm bút cả. 
        Riêng với người viết báo; chẳng những được đa số dân chúng nể vì, quý trọng 
( vì tranh đấu bênh vực quyền lợi cho họ) -- mà người cầm quyền (lớn, nhỏ) ở trung ương, địa phương đều 'sợ bọn nhà báo'.
      những bài điều tra, phóng sự làm cho bọn quan quyền tham nhũng, giao thương sợ xanh mặt.  
     quyền lực của người viết báo lên tới đỉnh cao; trấn áp cả quyền lực người cầm quyền.

       (...)

       Sức mạnh ngòi bút đã làm cho những nhà độc tài quân phiệt, như tướng Nguyễn Khánh cũng phải nhìn nhận  ' mỗi cây viết là một sư đoàn'.  Chính vì quyền lực này, đã nảy ra một số 'con sâu làm rầu nồi canh', với câu văn truyền tụng trong dân gian ' nhà báo nói láo ăn tiền'.

Hỏi:  Xin anh kể  một vài kỷ niệm vui buồn trong nghiệp vụ + nghiệp dĩ nghề viết lách.

Trả lời:  Chuyện vui buồn trong cuộc đời viết văn, viết báo; trai qua nửa thế kỷ; thì nhiều lắm, phải viết cả cuốn sách.  Chỉ xin kể vài ba câu chuyện, không biết là vui hay buồn.



Chuyện thứ 1  

- vào những năm thập niên 50 (thế kỷ 20); tôi làm nhân viên hợp đồng, giữ chức trưởng ban nghiên cứu (về văn hoa) của Văn hóa vụ. ( bộ Thông tin, dưới thời luật sư Trần chánh Thành làm bộ trưởng). 
      Tôi thì ,9 giờ rưỡi hay 10 giờ;  mới tới sở làm. Khi hết việc, tôi đi uống cà-phê với bạn bè; khi nhiều việc, tôi ở lại 8, 9 giờ tới;  giải quyết xong, mới về.  
     phải nói không ngại miệng, là khả năng tôi vượt ngoài công việc-- nhất là, không tương xứng với đồng lương. 
    vì cái sự 'cao ngạo' + 'đi làm trễ' của tôi, khiến 1, 2 đồng nghiệp nào đó tức tối
'chạy' lên bộ' báo cáo' với ông tổng thư ký T.T.L [Trần thúc Linh]
    ông này có bằng cử nhân luật, từng tham gia kháng chiến chống Pháp một vài năm; rồi trở về hàng ngũ quốc gia; nhưng đầu óc quan liêu, hống hách; thích đe nẹt thuộc cấp , lại ưa nịnh nọt,  Ông L. cho gọi tôi lên hạch sách ; về cái 'tội' đi làm trễ.  Tôi nhìn nhận là có đi làm trễ; nhưng công việc đều hoàn tất tốt đẹp, khả năng làm việc của tôi bằng 3 người khác.   Ông L. lắc đầu, xua tay, " ở đây, chúng tôi cần những nhân viên tôn trọng kỷ luật, giờ giấc công sở; sau đó mới xét tới khả năng. Tôi sẽ chuyển anh đi tỉnh, về sự vô kỷ luật của anh. ". 
     Tôi phản ứng liền, " nếu vậy; tôi xin thôi việc, kể từ giớ phút này." 
     Trước câu nói của tôi, ông L. có vẻ [bị] bất ngờ; ông ta không thể tin tôi 'dám' xin thôi việc; trong lúc kiếm được một việc làm 'trong Nhà nước' đâu có dễ dàng, nhưng ông vẫn làm bộ, thản nhiên nói, " Tốt thôi, vậy anh về làm đơn và chuyển từ Sở lên đây".-- 
" Thì tôi đã thông báo với ông rồi" --" Anh ngang bướng vậy thì tôi sẽ đưa anh ra tòa hành chánh; và, từ nay về sau, anh không bao giờ được làm ở công sở nữa, vì hồ sơ lý lịch của anh xấu." 
      tôi cười nhạt, " Cám ơn ông tổng thư ký; từ nay về sau, tôi cũng xin nói thẳng với ông là; dù có chết đói, tôi cũng không bao giờ làm công chức; nên ông muốn ghi gì vào hồ sơ, tùy ý.  Và, tôi xin gửi lại ông tổng thư ký hồ sơ này để làm kỷ niệm" .
      Nói xong tôi đứng dậy ra về. Hậu quả cửa sự' ngang bướng' này đã khiến tôi khốn đốn 1, 2 năm về sinh kế nuôi vợ con.
     Ít năm sau, khi chấm dứt nền đệ nhất cộng hòa; tôi trở thành ký giả chuyên nghiệp; và, sau được bầu làm chủ tịch' Nghiệp đoàn Ký giả Việtnam' -- có một đời sống tương đối ổn định, có nhà, có xe hơi. 
     Một hôm , tôi đưa vợ con ra Vũng tàu nghỉ mát.  Cả nhà vừa rời khỏi khách sạn T.N. để ra xe. đi biển tắm; thì, bất ngờ gặp vợ chồng ông T.T.L [Trần thúc Linh] đi vào khách sạn. 
     Tất nhiên; tôi lờ ông đi, để tránh cái chào. 
     cũng bất ngờ, ông ta bước nhanh lại phái tôi, cất tiếng chào to, " Gớm! làm lớn, thấy anh em định lờ đi, phải không ?" Tôi bất đắc dĩ phải ngừng lại, bắt tay, nói." Chào ông tổng thứ ký" Ông L. biết  tôi xỏ ông; vì ông mất chức tổng thư ký lâu rồi.  Ông cười hề hề, đánh trống lảng,"Thôi mà,người anh em. Dù sao chúng ta có thời kỳ làm việc với nhau. Trong công việc tránh sao khỏi va chạm, buồn vui." 
     Trước khi đi, tôi nói, " Lúc nào tôi cũng nhớ tới ông, với sự biết ơn, Tôi nói thật đấy!  Nếu không có cái sự trừng trị thẳng thừng của ông, chắc giờ này tôi vẫn là một viên chứ hạng bét; tuy mẫu mực, nhưng vẫn mòn mỏi và rỗng ruột." 
    Vào đầu 1975,khi 'đánh hơi thấy VNCH sắp lâm nguy, ông T.T.L. trở cờ đón gió, bị bắt giam trong Tổng nha cảnh sát. Ông nhờ người cầm thư tay tới tòa báo [ nhật báo Chính Luận] chúng tôi cầu cứu; bằng cách loan tin và ' lên tiếng' giúp ông trong việc tuyệt thực phản đối.(!)
    dù chúng tôi chẳng ưa gì ông; nhất là với việc ông làm' ăn cơm quốc gia thờ ma ...'; nhưng thay vì bồi thêm cho ông một trận, chúng tôi lại loan tin vụ tuyệt thực một cách vô tư. 
    như vây có khác gì nối giáo cho giặc?
   Có lẽ người quốc gia chúng ta thua một phần, vì cái cảm tính, cái chấy 'quân tử Tàu' này.  Nghe nói; ông này, sau khi CS vào miền Nam, đã chạy chọt kiếm chút danh lợi trong hội 'Trí thức yêu nước'; nhưng rốt cuộc vẫn  'ăn cơm nguội nằm nhà ngoài' -- sau đó ,ông chuồn sang Pháp sống, giã từ cõi thế sau đó một vài năm. 

Chuyện thứ 2

Nếu tôi nhớ không lầm, vào năm 1958; lúc ấy tôi thất nghiệp, đói rách.
     Mỗi tháng chỉ có 1, 2 truyện ngắn đăng trên  báo ; tiền nhuận bút không đủ mua sữa cho con. 
     một hôm, có anh bạn làm thơ, sống tại Biên hòa về Saigon thăm, hí hửng đưa cho tờ
' bướm' quảng cáo của một đoàn hát cải lương, nói, " Anh có một khoản tiền rồi."  Tôi chưa kịp hỏi; anh lại nói tiếp, " Đoàn cải lương lấy truyện của anh để diễn thành tuồng cải lương." 
     tôi cầm tờ' bướm' coi, đúng là họ lấy truyện' Cánh hoa mùa loạn' của tôi viết thành tuồng.  Nội dung tuồng' y chang' cuốn truyện của tôi; nhưng không đề tên tác giả , cũng như xuất xứ vở tuồng phóng tác.  
    thế này đúng là 'đạo văn' rồi; nhất định phải bắt họ trả quyền tác giả; nếu họ lơ mơ thì mình kiện ' sặc gạch'. 
    anh bạn nói, " tôi đồng ý với anh'.
    Thế rồi sáng hôm sau, tôi tới thành phố Biên hòa, vào lúc 9 giờ sáng; đi bộ tới rập hát, nơi đoàn cải lương trình diễn.
    được biết phải gần 12 giờ trưa, các nghệ sĩ mới thức dậy. Thôi đành phải ngồi đợi họ, ở một quán 'cóc' tới gần 12 giờ trưa, các nghệ sĩ cải lương mới thức dậy. Tôi hỏi thăm ' ai là thầy tường kiêm 'bầu' đoàn hát'.  
    gặp một người khoảng 3o tuổi, da mặt xanh bủng, đầu chải bóng mượt,  tóc mai 2 bên dài vắt ngang tai, mặc ' pyjama' vàng nhạt nhầu , bẩn; bước đi khật khưỡng, xiêu vẹo.         khi biết tôi là tác giả cuốn truyện [bị]  'phóng' thành 'tuồng'; anh ta chẳng lộ vẻ ngạc nhiên  gì.  Sau cái ngáp dài, không cần che miệng, nói giọng ngai ngái, để lộ mấy cái răng vàng. " Thế anh Hai muốn  chi ?"  -- " Tôi muốn anh trả bản quyền tác giả; và, phải để tên tác giả cuốn truyện là tôi; mà anh phóng tác thành tuồng." 
    Mặt anh' thầy tuồng' bỗng dài ra, méo xệch, nói một hơi dài như ca cải lương, " Chèng đét ơi, nói anh Hai  thương, bọn tui đêm qua chỉ có đúng 12 khán giả mua vé, nên phải dẹp đêm hát.  Sáng nay cả đoàn không có cả tiền cà-phê; lấy đâu tiền trả anh Hai.  Anh hai thông cảm đi; bao giờ 'mần ăn' khấm khá, tụi em không quên anh Hai'".
    trước cái sự tả oán của thầy tuồng;  tôi đành chào thua, lại còn phải chi trả thay cho anh ta chầu cà- phê sữa + bánh bao nữa.  Khi bắt tay từ giã, anh thầy tuồng cầm bàn tay tôi lắc mãi, " Thông cảm cho tụi em nghe, anh Hai, thông cảm nghe ..."
    Tôi ngồi trên xe lô về lại Saigon vẫn còn nghẹn ngào cay đắng dâng nơi cổ họng. ...

    (...) - tạm lược  khoảng 40 dòng. (Bt)

  Hỏi:  Tại hải ngoại hiện nay, anh nhận thấy công việc làm báo, viết văn; có những thuận lợi nào? [kể cả] bất lợi.

   Trả lời :   Nói về thuận lợi ; có thể nói phương tiện khoa học có thể nói là vô cùng thuận lợi cho người làm báo, viết văn. Cộng thêm là  được hòan toàn tự do, một vốn quý báu nhất đối với người cầm bút.  Chưa bao giờ người cầm bút việt được tự do, thoải mái như ở nước Mỹ này. 
    muốn viết, in gì; thì cứ việc làm; kể cả việc chửi tổng thống + cái nước đã cưu mang .     chính vì tình trạng 'bội thực tự do' này phát sinh  nhiều tiêu cực, nhiều điều đáng tiếc, đau lòng.  Người ta lợi dụng tự do để làm công việc 'vô chính phủ' , 'vô trật tự', 'vô kỷ cương', ' vô đạo đức' .  
    thêm vào, đa số những người nắm giữ trong tay những tờ báo hiện nay  không phải là người làm báo chuyên nghiệp, chưa học qua trường làm báo; lại không có cả một chút khả năng để viết, cũng như làm nghề báo. 
    họ làm báo không phải để làm báo ( với ý nghĩa chân chính của nghề); họ chỉ là những cấy tầm gửi sống bám vào nghề báo để' kiếm ăn' + làm giàu nữa.  Đó là những con buôn không hơn, không kém. Anh thử đếm trên đầu ngón tay xem, có bao nhiêu tờ báo (chữ Việt) xứng đáng gọi là:  tờ 'báo', cơ quan thông tin, ngôn luận trên đất Mỹ nay.  Có thể nói chưa bao giờ người cầm bút bị xem thường ( đôi khi bị coi khinh nữa) như hiện nay. Ngày trước, người ta quý trọng người cầm bút bao nhiêu; [trái lại], bây giờ vị xem thường bấy nhiêu. '  

     (...) - tạm lược khoảng 40 dòng. (Bt)

    Hỏi: Có nhiều độc giả thắc mắc, muốn biết duyên do bút hiệu Thanh Thương Hoàng của anh. Anh có thể cho biết ?

    Trả lời :   Vâng; có một số bạn hữu, độc giả tò mò muốn biết tại sao tôi lấy bút hiệu này. 
    nhạc sĩ quá cố Nhật Trường tình cờ gặp tôi ở quận Cam hỏi thằng, " có phải anh lấy bút hiệu, đó là anh' thương cô Hoàng' hay ' cô Hoàng thương anh' không?" .
    tôi đáp: quê nội tôi ở Thanh Chương. ( Nghệ An).  
    Theo lời bố tôi kể lại; ông nội tôi làm quan tại triều đình Huế, đã tham gia phong trào Cần Vương; hoặc, theo cụ Phan Bội Châu chống Pháp gì đó, bị bắt đi đày chung thân, biệt xứ tại Móng Cái .( Hải Ninh).  Tại đây, sinh ra bố tôi và thế hệ sau là tôi.  Người' bản địa'  quen gọi chúng tôi là 'con cháu ông đồ Nghệ'; một phần nội tôi bị lưu đày ở đây,  đã dạy chữ Nho để mưu sinh.
    để ghi nhớ quê cha, đất tổ, nội tôi di chúc' con cháu đệm chữ' thanh' vào giữ tên họ' .
( người miền Trung ít dùng chữ đệm đặt giữa tên và họ.)
 
    khi khởi sự viết văn; tôi lấy bút hiệu Thanh Chương,  xuất bản cuốn truyện đầu tay
' Cánh hoa mùa loạn' xuất bản nắm 1955 ở Saigon.  ( chỗ này hơi lòng thòng một chút. xin thông cảm cho chuyện riêng tư, chẳng đáng nói -- nhưng anh có nhã ý hỏi; đành phải trả lời vậy.)
     Năm đó, ông Ngô Đình Diệm trưng cầu dân ý để truất phế vua Bảo Đại. Tôi có nhiệm vụ đi 'quan sát' các phòng phiếu ở quận 3 ; tình cờ gặp một cô  nàng be bé xinh xinh ở trường học, dùng làm nơi bỏ phiếu.
    bởi mê mẩn vẻ đẹp, tôi loanh quanh đợi tới trưa, khi cô ra quán ăn trước cổng trường dùng bữa; tôi lấy hết can đảm ( tôi vốn nhút nhát đối với phụ nữ) tới bàn đối diện ngồi;  và, bắt chuyện với cô.  Chỉ lắp bắp được vài ba câu vô nghĩa; cô ngạc nhiên, tỏ ra ngại ngùng trước một gã trai lạ-- và, cô trả lời cho xong những câu ngớ ngẩn của tôi. 
    hình như cô cũng lúng túng không kém tôi. 
   Sau hết, trả lời câu tôi hỏi; cô cho biết tên là' Hoàng', làm việc ở sở Lao Động
. ( lúc ấy ở trên đường Pasteur thì phải.) . 
   để 'lấy le' với người đẹp' ta là nhà văn' ; và, cũng để biểu lộ tình cảm, nhằm chinh phục người đẹp ( theo sự xui dại , khôn của bà bạn); tôi đến ngay nhà in yêu cầu thêm chữ 'Hoàng' vào sau 2 chữ 'Thanh Chương', tức' Thanh Chương Hoàng'.
   sách in xong; thì tên tác giả lại là 'Thanh Thương Hoàng'. ( chữ C biến thành T của chữ Chương')
   tất nhiên tôi phản đối; bắt đền, vì cái tên nghe có vẻ 'cải lương' quá. 
   chủ nhà in, có lẽ vì tiếc tiền phải làm lại 'cliché' ( thời đó in 3 màu phải làm 3 bản kẽm và in 3 lần.)  & giấy bìa; tốn kém thêm tiền bạc, nên ông ta 'tán' với tôi: ' ngày xưa thời Nghiêu Thuấn, vua Văn hay Võ gì đó là khúc nhạc 'Thanh Thương'  để cầu hiền' (?) -- và Hoàng  ở đây là Hoàng đế '(?).
   ngoài 'điển' này ra, ông ta bảo tôi nên dùng bút hiệu này, còn có thể làm cho cô Hoàng nào đó xiêu lòng yêu tôi, không chừng vậy.
  Nghe bùi tai, tôi đành chấp nhận 'cái bút hiệu không do mình đặt'. 
 tôi lấy một bản in đặc biệt tren giấy quý, đem đi đóng bìa cứng, gáy da, mạ chữ vàng; trịnh trọng để dành tặng 'người đẹp tên 'Hoàng', nơi trang đầu sách;  rồi 'diện bộ com-lê', cà-vạt  đàng hoàng; phóng xe Solex tới bộ Lao Động tìm 'nàng' để tặng sách, với ý định sẽ mời nàng đi ăn tối, xem xi- nê luôn.
  nhưng, mất hằng giờ tìm kiếm; hỏi thăm tất cả các ban, phòng, cả ông tùy phái; tất cả cho biết ở đây ' không có cô nào tên là Hoàng cả'.
   Buồn rầu, chán nản, thôi đành phải ra về. .. thế rồi cái bút biệu Thanh Thương Hoàng đeo đuổi tôi mãi cho tới bây giờ. 
   Gần 20 năm sau, tình cờ tôi được biết, ở bộ Lao động thời đó, có một cô hình dáng tựa cô Hoàng, nhưng tên là Yến, đã lập gia đình với một sĩ quan Hải quân [VNCH].  ...

   Phương Duy
  (i.e.  Trương Duy Cương)
   thực hiện



     vài dòng tiểu sử  Thanh Thương Hoàng


    - sinh 1930 tại Hải Ninh ( Bắc Bộ), nguyên quán Nghệ An .(Trung Bộ)
    - 1953 : vào Saigon
    - 1954 : khởi sự viết văn, viết báo, đã xuất bản 12 tác phẩm. ( gồm truyện ngắn + truyện dài)
    - trước 1975 : ký giả, chủ bút, chủ nhiệm, tổng thư  ký nhiều tờ báo lớn ở Saigon, chủ tịch Nghiệp 
      đoàn Ký giả Việt Nam; và là sáng lập viên Làng Báo Chí Việt Nam tại Thủ Đức. ( nay Quận 2, tp HCM)
    -  sau 30/4/ 1975 :  bị đi tù ' học tập cải tạo'  qua nhiều trại tập trung, ngót 10 năm, về tội' văn nghệ sĩ  báo chí phản động'.
    -  tháng 5/ 1999 : do sự can thiệp của các hội đoàn hải ngoại, Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Văn Bút  Quốc Tế (PEN/ International), Quốc Tế Nhân Quyền. Liên Đoàn Báo Chí Hoa Kỳ,  Hội Bảo Vệ Gia Đình  tù nhân chính trị Việtnam  (  Khúc Minh Thơ), bộ Ngoại giao Hoa Kỳ ,
        ông được sang định cư  ở Hoa Kỳ. 
    - năm 2003, ông làm chủ nhiệm, chủ bút tuần báo Đời, số ra mắt vào ngày 2/ 5/ 2003.; hiện cộng tác  với các tuần báo, nhật báo ở San José 
và Houston ...

       đã xuất bản:

    - Cánh hoa mùa loạn ( 1955) -- Kiếp phong sương ( 1956) -- Nổi lửa (1960) -- Lành rách ( 1965) --Khoảnh khắc + Thiên thu ( xuất bản ở Australia, 1994) -- Ông Tướng tỵ nạn ( USA, 2005) -- Dòng suối ( USA, 2009) --  Cõi đới, Cõi người ( USA, 2011) -- A Lonely American (USA 2003) .


     ( theo thanhthuonghoang@thanhthuonghoang.com)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét