Nhà thơ Giang Nam và bài thơ “Quê hương”
TÔ KIỀU THẨM
Nhà thơ Giang Nam tên thật là Nguyễn Sung, sinh năm 1929, tại Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa. Tháng 8-1945, 16 tuổi Sung nghỉ học tham gia công tác thông tin tuyên truyền cho cách mạng. Do tích cực hoạt động trong các phong trào và viết báo tốt, khoảng đầu năm 1954, anh được điều động về căn cứ Đá Bàn, Ninh Hòa. Ở đây anh lính Nguyễn Sung gặp cô gái Phạm Thị Triều xinh đẹp. Cô sinh năm 1931 tại Vĩnh Trường, Nha Trang trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Lớn lên, Phạm Thị Triều theo chị gái tới vùng căn cứ Đồng Bò hoạt động cách mạng, một thời gian sau được điều về làm ở Khối Dân chính của Tỉnh ủy Phú Khánh, đóng ở Đá Bàn. Với Nguyễn Sung, dù tình trong như đã, nhưng ngày ấy chuyện yêu đương rất nghiêm ngặt. Cũng may mọi người điều thương mến, chăm lo nên trước ngày Nguyễn Sung ra Bình Định tham gia Đoàn Sĩ quan liên bộ đình chiến, chuẩn bị cho việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, đơn vị tổ chức lễ cưới cho hai người. Đôi vợ chồng trẻ ở với nhau được hai ngày thì Nguyễn Sung lên đường nhận nhiệm vụ mới. Khi chia tay, bà Triều tặng cho ông chiếc khăn tay và lá thư với lời nhắn nhủ ngắn gọn: “Hãy giữ gìn sức khỏe, tình yêu của em luôn trọn vẹn cho anh, mãi mãi là vậy và lớn thêm. Anh hãy sống cho lý tưởng cách mạng trước chứ đừng lo nghĩ cho em nhiều. Dù có bất cứ điều gì xảy ra, em cũng một lòng đợi anh, chung thủy với anh”. Hai người và đồng đội hy vọng rằng chỉ sau hai năm sẽ được đoàn tụ theo tinh thần hiệp định Giơ-ne-vơ, sẽ có Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Không ai nghĩ đó là cuộc chia ly không hẹn ngày về. Tuy nhiên sau đó, Nguyễn Sung được tổ chức đưa về lại Nha Trang hoạt động hợp pháp. Dù sống ngay trên thành phố quê hương nhưng hai vợ chồng hoạt động ở 2 tuyến khác nhau, không được gặp mặt, mà phải cảnh giác giữ gìn bí mật.
Một buổi tối giữa năm 1960, trời mưa tầm tã, Nguyễn Sung được cấp trên gọi lên động viên rồi thông báo có thể vợ và con gái đã bị địch giết hại trong nhà tù Phú Lợi. Đau đớn và thương cảm xót xa cứ thế trào dâng khi mất đi điều thiêng liêng, to lớn nhất. Nguyễn Sung ngồi trong căn chòi nhỏ dưới tán lá rừng, trước mắt là ngọn đèn dầu lù mù được che kín cả ba mặt chỉ trừ một chút ánh sáng rọi trên trang giấy. Nguyễn Sung đã viết một mạch không xóa sửa, hình ảnh cứ như được sắp xếp sẵn và hiện ra đầu ngòi bút. Từng giọt nước mắt trào ra:
Quê hương
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
"Ai bảo chăn trâu là khổ''
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Có những ngày trốn học
Đuổi bướm cạnh bờ ao
Mẹ bắt được...
Chưa đánh roi nào tôi đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích...
Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ, tôi đi
Cô bé nhà bên có ai ngờ!
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn thương thương quá đi thôi!
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời mà lòng tôi ấm mãi...
Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Tôi lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con khó nói lắm anh ơi!
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...
Rồi hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi, quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!
Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.
Giang Nam
Cái sự đau đớn tột cùng của Nguyễn Sung là:
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích em ơi
Đau xé lòng anh chết nửa con người…và đỉnh điểm là hai câu cuối cùng của bài thơ:
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi
Y như máu thịt của người yêu đã hóa thành những hạt bụi trộn vào mỗi hòn đất dù nhỏ nhất của quê hương. Nguyễn Sung không ngờ bài thơ viết trong giây phút đau đớn của đời mình lại trở thành một bài thơ tình yêu được người đọc yêu thích. Thế là chỉ trong một giờ đồng hồ, Nguyễn Sung viết xong bài thơ “Quê hương”. Viết liền mạch, không tẩy xóa, không thay đổi. Sau đó, bài thơ được gửi cho Báo Thống Nhất (tiền thân của Báo Văn Nghệ), được trao giải nhì trong cuộc thi tác phẩm văn học trên tờ báo này, rồi được đưa vào sách giáo khoa.
Tưởng rằng vợ con đã bị địch giết hại. Nhưng bất ngờ, năm 1962, sau 3 năm bị bắt, Phạm Thị Triều và con gái được trả về do không tìm ra căn cứ kết tội. Cô con gái nhỏ phải theo mẹ hết nhà giam này sang nhà giam khác, bà Triều phải đấu tranh quyết không chịu xa con, vì thế mà mẹ con luôn được ở bên nhau vẹn toàn. Gia đình nhỏ đoàn tụ trong nước mắt. Ngay sau đó, Khu ủy Khu 6 và Tỉnh ủy Khánh Hoà điều động Nguyễn Sung bổ sung cho Ban Tuyên huấn Khu ở vùng giáp ranh hai tỉnh Đăk Lăk và Tuyên Đức. Ông bà vừa gặp nhau lại phải chia xa. Về Khu chưa được bao lâu Nguyễn Sung lại đi học Trường Đảng do Trung ương cục miền Nam mở ở Tây Ninh, sau đó ông được giữ lại công tác tại Hội Văn nghệ giải phóng với chức danh Phó Tổng Thư ký Hội. Từ đó là quãng thời gian ông gắn bó với hoạt động văn nghệ giải phóng. Năm 1968 bà Phạm Thị Triều cùng cô con gái lại bị địch bắt lần hai. Hai mẹ con bị buộc tội đưa ra tòa mấy lần nhưng không thành do một luật sư tốt bụng bào chữa giúp. Chính vì thế mà bà và con gái không bị đầy ra Côn Đảo. Năm 1973, sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết hai mẹ con được trao trả về với cách mạng. Sau bao năm ly biệt, lúc này cô con gái cũng đã mười lăm tuổi, vợ chồng Giang Nam tuổi cao nên không sinh thêm được người con nào nữa.
Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, nhà thơ Giang Nam vào làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Đến năm 1978, ông ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1989, sau khi tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, Tỉnh ủy Khánh Hòa xin ông về làm Phó chủ tịch UBND tỉnh phụ trách văn xã. Bà Phạm Thị Triều là đảng viên 63 năm tuổi Đảng; nguyên Phó Chủ tịch UBND phường Vĩnh Trường; cựu tù chính trị từng 2 lần bị địch bắt tù đày. Bà đã ra đi mãi mãi vào tháng 4-2013 ở tuổi 82.
Qua mấy chục năm hoạt động cách mạng và thơ ca, nhà thơ Giang Nam có các tác phẩm tiêu biểu như: Tháng Tám ngày mai (1962), Quê hương (1965), Người anh hùng Đồng Tháp (1969), Vầng sáng phía chân trời (Nxb Văn học Giải phóng TP.HCM 1975), Hạnh phúc từ nay (Nxb Tác phẩm mới Hà Nội 1978), Thành phố chưa dừng chân (Nxb Tác phẩm mới Hà Nội 1985), Rút từ sổ tay chiến tranh (truyện ngắn và ký, Nxb Văn nghệ TP.HCM 1987), trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết… Ông được trao một số giải thưởng cao quý như: Giải ba về truyện ngắn của báo Thống Nhất năm 1960, Giải nhì về thơ tạp chí Văn Nghệ năm 1961, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Tô Kiều Thẩm
===============
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét