Thứ Tư, 20 tháng 1, 2021

NHÃ CA -- source: http://phannguyenartist.blogspot.com/

 

Monday, 18 November 2013

Nhã Ca


















Nhã Ca

Tên thật: Trần Thị Thu Vân
(1939 - .........) Huế
Nhà văn, Nhà thơ, Nhà báo







Nhã Ca tên thật là Trần Thị Thu Vân, sinh trưởng ở Huế.
 Vào Sài gòn sống và viết văn từ 1960.

Trong vòng 15 năm (1960 - 1975), Nhã Ca đã cho xuất bản thành sách 36 tác phẩm gồm các thể loại bút ký, thơ, tiểu thuyết. 
Nhiều tác phẩm đã được trao giải thưởng và dịch ra tiếng Pháp, tiếng Anh. 
Đạo diễn Hà Thúc Cần đã dựng một phần Giải Khăn Sô Cho Huế và Đêm Nghe Tiếng Đại Bác thành phim Đất KhổCô Hippy Lạc Loài cũng được chuyển thể thành phim Hoa Mới Nở  với Đạo diễn Lê Dân.
Sau biến cố 30/04/1975 Nhã Ca bị bắt giam hai năm về tội "biệt kích văn háo". 
Nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế Nhã Ca và chồng là Nhà thơ Trần Dạ Từ đã sang tỵ nạn tại Thụy Điển, sau đó định cư tại California, Hoa Kỳ.












Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh, em cũng tựa sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét 
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ
12/6/2017









Còn một lần hay hai ba lần nữa
Hòn đá xanh lăn về phía mặt trời
Cây trái cũ kiếp sau này có nhớ
Những mặt trời tan vỡ kín trong tôi

Nhã Ca














Tác phẩm đã xuất bản













Thơ














1
Nhã Ca mới

Nxb Ngôn Ngữ 1964

Giải thưởng Thi Ca Toàn Quốc 
(Việt Nam Cộng Hòa) 1965

Tựa: Nguyên Sa
Bạt: Dương Nghiễm Mậu
Phụ bản: Duy Thanh, Nguyễn Trung, Cù Nguyễn

http://vietmessenger.com/books/?title=nhacamoi






2
Thơ Nhã Ca


Vietbook tái bản
Tủ sách Thương Yêu xuất bản lần đầu năm 1972


Nguyên Sa đề tựa
http://vietmessenger.com/books/?title=thonhaca
























Văn













3
5
Bóng Tối Thời Con Gái
 1967















6
Khi Bước Xuống 
1967






7
Người Tình Ngoài Mặt Trận 
Nxb Kim Anh 1967






8
Sống Một Ngày 
1967






9
Xuân Thì 
1967






10
Những Giọt Nắng Vàng 
1968















11
Đoàn Nữ Binh Mùa Thu

1969


















12
Giải Khăn Sô Cho Huế 

Hồi Ký
Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Quốc gia 1970
Nxb Đất Lành in lần đầu tại Sài Gòn 1969















Bản dịch tiếng Anh “Giải Khăn Xô Cho Huế” của Nhã Ca



Giới thiệu sách mới



Tác phẩm “Giải Khăn Xô Cho Huế” của nhà văn Nhã Ca đã ra mắt lần đầu tiên vào năm 1969 tại Việt nam. Năm 1970, tác phẩm này được Giải thưởng Văn học Việt nam. Và vào năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 40 năm vụ Thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968 – 2008), tác phẩm cũng lại được tái bản tại hải ngọai.



Vào tháng 8 năm 2014 vừa qua, bản dịch Anh ngữ lần đầu tiên do dịch giả Olga Dror thực hiện đã được ra mắt với công chúng. Và vào ngày 25 tháng Hai năm 2015, tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror sẽ cùng có mặt trong buổi Giới thiệu bản dịch Anh ngữ này tại Thư viện Doe Library thuộc Đại học Berkeley, California.



Xin ghi chi tiết về tác phẩm này như sau:
Mourning Headband For Hue
by Nhã Ca
An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968
Translated and with an Introduction by Olga Dror
Indiana University Press – 2014
Sách dày 378 trang, giấy trắng, khổ chữ 12, bìa cứng
Đối với phần đông độc giả người Việt, thì tôi nghĩ khỏi cần ghi lại chi tiết cuốn sách này bởi lẽ ai ai thì cũng đều có dịp đọc trực tiếp qua nguyên tác rồi. Do đó, trong bài giới thiệu này, tôi sẽ trình bày một số điểm nổi bật trong ấn bản tiếng Anh – đặc biệt là bài Giới thiệu ở đầu cuốn sách dài đến trên 50 trang với rất nhiều chi tiết độc đáo của dịch giả Olga Dror.

I – Sơ lược về tiểu sử dịch giả Olga Dror.

Olga Dror sinh trưởng tại thành phố Leningrad, Liên Xô trong một gia đình gốc Do Thái. Bà chọn học về Ngôn ngữ và Văn hóa Việt nam, đã có văn bằng Cao Học về Đông phương học tại trường Đại học Quốc gia Leningrad năm 1987. Sau đó theo học chuyên sâu tại Viện Ngôn ngữ thuộc Hàn lâm viện Khoa học tại Moscow. Bà làm việc cho bộ phận phát thanh về Việt nam của Đài Phát Thanh Moscow.

Năm 1990, Olga di cư về Do Thái. Tại đây bà học thêm về môn Bang giao Quốc tế tại Đại học Hebrew. Sau đó bà làm việc cho Bộ Ngọai giao Do Thái tại sứ quán Do thái ở thủ đô Riga, nước Latvia.

Qua Mỹ, bà tiếp tục nghiên cứu về Việt nam và năm 2003 đậu thêm văn bằng Tiến sĩ tại Đại học Cornell. Hiện Olga Dror là Giáo sư Phụ tá giảng dậy về Lịch sử tại Đại học Texas A&M, Texas. Phu quân của bà là Giáo sư Keith Taylor người Mỹ dậy học ở Đại học Cornell và cũng là một học giả nổi tiếng chuyên về Lịch sử và Văn hóa Việt Nam.

Olga Dror còn là tác giả cuốn sách viết về Công chúa Liễu Hạnh có nhan đề “Cult, Culture and Authority : Princess Liễu Hạnh in Vietnamese History” được nhà xuất bản Đại học Hawaii ấn hành năm 2007. Và bà còn là người biên tập cho hai cuốn sách về Tôn giáo ở Việt nam và Trung quốc. Hiện bà đang nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới trẻ ở cả hai miền Bắc và Nam Việt nam trong giai đọan chiến tranh 1965 – 1975.

Nhân tiện cũng xin ghi vài dòng về nhà xuất bản Đại học Indiana, là nơi có một tủ sách chuyên xuất bản những tác phẩm nghiên cứu về chiến tranh Việt nam. Và vào năm 2012 cơ sở này cũng đã cho ấn hành cuốn Hồi ký viết trực tiếp bằng Anh ngữ của tác giả Nguyễn Công Luận với nhan đề là : “Nationalist in the Vietnam Wars : Memoirs of a Victim Turned Soldier”. Olga Dror cũng đã viết bài điểm sách bằng tiếng Anh khá chi tiết về cuốn này và chính tôi người viết bài này cũng đã có dịp giới thiệu sách với bạn đọc người Việt trước đây nữa.

II – Đánh giá của giới nghiên cứu và nhà báo về tác phẩm.

Các giáo sư Trần Huy Bích, Nguyễn Ngọc Bích cũng như nhà báo Phan Tấn Hải đều đánh giá cao công trình chuyển ngữ rất công phu do Olga Dror thực hiện về cuốn Giải Khăn Sô cho Huế từ nguyên tác tiếng Việt qua tiếng Anh.

Gs Trần Huy Bích viết : “Đây là một cuốn sách giá trị, một trong những tác phẩm xuất sắc và đắc ý nhất của nhà văn/nhà thơ Nhã Ca. Dịch giả Olga Dror là một học giả người Nga, rất uyên bác và rất giỏi tiếng Việt …”

Nha sĩ Cao Minh Hưng viết : “Một cuốn sách mà quý vị phụ huynh nên mua cho các cháu sinh ra và lớn lên ở hải ngọai đọc để hiểu thêm về sự thật của Tết Mậu Thân 1968 …”

Nhà báo Đinh Từ Bích Thúy trên báo Damau.org và nhà báo Ngọc Lan trên báo Người Việt đều đã viết bài giới thiệu rất đày đủ về tác phẩm này – kể cả phần phỏng vấn tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror.

Nhà báo Phan Tấn Hải thì nói : “Bài giới thiệu của Olga Dror viết rất kỹ, đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề với sự thận trọng và tinh thần trách nhiệm mà không ai có thể bắt bẻ chê trách vào đâu được…”

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích thì nói: “Chúng ta cần phải cho dịch ra ngọai ngữ thật nhiều cuốn sách và tài liệu quan trọng như thế này – để mà có thể đi sâu vào dòng chính của văn học thế giới…”

Các đại học và nhà xuất bản ngọai quốc đều lên tiếng đánh giá cao và khen ngợi tác giả và dịch giả của tác phẩm này – như mọi người chúng ta đều có thể dễ dàng tìm đọc trên Internet.

III – Tóm lược mấy ý chính trong bài Giới thiệu của dịch giả Olga Dror.

Với tinh thần trách nhiệm và lối làm việc nghiêm túc của một học giả, Olga Dror đã viết bài Giới thiệu nhan đề là:

“Translator’s Introduction” dài đến 50 trang với nhiều chi tiết thật đáng chú ý. Xin ghi ra mấy điểm chính yếu như sau.


1 – Trong thời gian sinh sống và học tập ở Liên Xô, Olga đã không hề được biết đến văn học của miền Nam Việt nam. Mà chỉ sau này, khi qua Mỹ bà mới có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ hơn về sinh họat văn hóa tại miền Nam. Và bà đã khởi sự công trình dịch thuật tác phẩm Giải Khăn Sô cho Huế trong gần 2 năm với sự trao đổi thường xuyên với tác giả Nhã Ca – tất cả email hay thư từ, điện thọai giữa hai người đều sử dụng tiếng Việt.

Sẵn biết đến những ký ức đau đớn của ông bà cha mẹ và thân nhân phải chịu đựng trong suốt thời kỳ thành phố Leningrad bị quân Đức bao vây phong tỏa hồi thế chiến thứ hai, nên Olga dễ có sự đồng cảm với nỗi đau thương thống khổ của người dân Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 – mà tác giả Nhã Ca đã mô tả thật rành mạch cảm động trong tác phẩm. Vì thế mà Olga đã ra công tìm hiểu chi tiết về bối cảnh văn hóa xã hội liên hệ đến cuộc chiến và đặc biệt về biến cố Tết Mậu Thân – mà chính quyền cộng sản Xô Viết không bao giờ đưa ra một thông tin nào cho người dân được biết đến.

2 – Olga đặc biệt nhấn mạnh đến tiếng nói của người dân vốn vừa là nạn nhân vừa là chứng nhân trực tiếp của hận thù bạo lực trong cuộc chiến phức tạp ở Việt nam. Đây không phải đơn giản là cuộc chiến tranh do người Mỹ hòan tòan chủ động, mà chủ yếu đó là một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Bà đã tham khảo bao nhiêu sách báo và tài liệu liên quan đến cuộc chiến và còn trưng dẫn lối giải thích của một số tác giả cho là chính mấy trăm cán bộ địa phương của phe cộng sản mới là thủ phạm chính yếu đã ra tay sát hại mấy ngàn người thường dân vô tội của Huế trong mấy ngày đầu họ chiếm giữ được thành phố này.

Trong bài Giới thiệu, Olga đã phân tích rành mạch về nhiều khía cạnh, lối nhìn của hai phía đối nghịch đối với biến cố Tết Mậu Thân ở Huế – kể cả trong công luận ở Mỹ cũng như ở Liên Xô và cả ở nước Nga hiện nay. Để trả lời cho luận điệu thiên vị của một số học giả tại nước Nga hiện nay mà vẫn còn một mực đơn phương kết án sự tàn bạo của Mỹ trong vụ thảm sát Mỹ Lai năm 1968, Olga nói rằng : “Chúng ta cần ghi thêm cả sự tàn ác trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế nữa. Như vậy mới là khách quan, không thiên vị đối với một bên nào trong cuộc chiến tranh này…” Và cũng vói sự thận trọng của người nghiên cứu lịch sử và văn hóa, bà tránh đưa ra những kết luận vội vã vì nhu cầu chính trị nhất thời hay do thiên kiến phát sinh từ một quan điểm ý thức hệ nào đó.

3 – Olga dành đến 7 trang trong bài Giới thiệu để nói về lập luận của hai người mà dân Huế coi là dính líu nặng nề nhất trong vụ sát hại thường dân – đó là Hòang Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân mà hiện vẫn còn sống tại Huế. Bà trích dẫn những sách báo do hai người này viết, cũng như phát biểu của họ trong những cuộc phỏng vấn của các đài phát thanh, truyền hình ngọai quốc. Qua những trích dẫn chi tiết này, người đọc dễ dàng nhận ra cái lối chối tội quanh co, tiền hậu bất nhất của hai nhân vật mà nhiều người ở Huế coi là một thứ “đồ tể với bàn tay nhuốm đày máu” trong vụ Tết Mậu Thân vậy. Tuy thế, Olga cũng vẫn thận trọng và tế nhị ghi lại rằng mình không có ý định xác quyết về vai trò của hai người này trong vụ thảm sát đó.
Olga cũng dành đến 2 trang để thuật lại bài nhan đề “Huế Xuân 68” của Đại tá Lê Minh là một vị chỉ huy trong cuộc đánh chiếm Huế năm 1968, bài viết được đăng vào năm 1988 nhân kỷ niệm lần thứ 20 chiến dịch Tết Mậu Thân 1968. Trong phần kết luận, ông Minh kêu gọi :”Cần phải minh oan cho các gia đình và con cháu của những người đã chết trong hòan cảnh đó…”\

IV – Tóm lược.

Nói chung bản dịch tiếng Anh do Olga Dror thực hiện với tinh thần trách nhiệm và sự thận trọng của một học giả uyên bác – rõ ràng là một đóng góp quan trọng để giúp cho công chúng trên thế giới hiểu biết thấu đáo hơn về những nỗi thống khổ đày đọa mà người dân Việt nam phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh tàn khốc cách nay đã trên 40 năm.

Nhân dịp kỷ niệm năm thứ 47 vụ Thảm sát Tết Mậu Thân (1968 – 2015) người viết xin trân trọng giới thiệu tác phẩm quý giá này đến với bạn đọc – đặc biệt với các gia đình có người thân là những nạn nhân bị sát hại tức tưởi hồi đó với lời nguyện cầu cho hương linh của người quá cố luôn được an nhiên thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng./

Costa Mesa California, Tháng Hai 2015


















13
Một Mai Khi Hòa Bình
1969
















14


15
Phượng Hoàng 
1969







16



17
Dạ Khúc Bên Kia Phố 
1970







18
Tình Ca Trong Lửa Đỏ 
1970






19
Đời Ca Hát 
1971















20
Mùa Hè Rực Rỡ 

1971

















21
Lăn Về Phía Mặt Trời
Nxb Sống Mới 1971
















22
Mộng Ngoài Cửa Lớp 

1972


















23
Trưa Áo Trắng
1972
















24
Trăng Mười Sáu  

1972






25
Tuổi Hồng Vỗ Cánh 

1973














26
Tòa Binh-Đinh Bỏ Không
Nxb Đồng Nai 1973
















27
Đám Táng Cá Voi 

nxb Đồng Nai 1973
















28
Cô Hippy Lạc Loài

 
1973
Đạo diễn Lê Dân chuyển thể thành phim Hoa Mới Nở
















29
Bước Khẽ Tới Người Thương 

Truyện dài, Tủ sách trăng mười sáu 1974
http://www.dactrung.com/NoiDung.aspx?m=tr&id=6721


















30
Yêu Một Người Viết Văn 

1974






31
Bầy Phượng Vỹ Khác Thường

1974
















32
Cổng Trường Vôi Tím 

In lần đầu tại Sài Gòn 1974

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n3nvnnnvn31n343tq83a3q3m3237nvn

















33
Ngày Thơ, Tình Thơ 
Tủ sách trăng mười sáu  
Sài Gòn 1974

Sách xuất bản tại hải ngoại 








Nhã Ca 
Giải Khăn Sô Cho Huế
Họa sĩ Chóe minh họa






















35
Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa

Truyện dài, nxb Thương Yêu 1989
http://4phuong.net/ebook/68582222/183238577/mot-mo.html


















36
Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng
Sài Gòn Cười Một Mình
Nxb Thương Yêu 1990

















38
Đường Tự Do Sài Gòn

Nxb Việt Báo 2006





























Nguyễn Trung vẽ Nhã ca






CHÂN DUNG BIỆT KÍCH
Nhã Ca







Hôm nào? Chẳng thể nhớ nổi. Khoảng bốn giờ chiều. Nguyễn Trung tới.

“Vân. Về sao không lại đằng tao, mầy?

“Biết về, sao mày không chịu vác mặt tới. Còn hỏi.”

“Hơ. Con già mồm. Không lại là gì đây. Mày đang nói chuyện với ai vậy?”

“Với thằng chó. Tao tưởng mày ngán, hết dám lại.”

“A. Cũng ngán tí ti. Chúng nó biểu thằng Từ với mày là Xê I A . Hắn ra sao rồi?”

“Sao với trăng gì. Còn tù dài dài.”

“Lên nhà cũ ở Gia Định, tưởng tiêu hết rồi chớ. Bữa qua, gặp thằng Nghiễm, mới biết mẹ con mày ở đây. Tao có quà cho mày. Hết xẩy.”

“Quà gì đâu?”

“Từ từ. Lạ thiệt. Thằng chồng mày tên Từ mà mày thì nóng nẩy. Có đế không đã?”

“Đưa quà ra đã mới có rượu.”

“Từ từ. Rượu đã.”

Đành phải kiếm cho Trung một xị. Trong bạn bè của Từ, Trung thân với tôi nhất. Hai đứa quen mày tao chi tớ từ nhỏ.

“Nghe bọn bay bị bắt, chẳng biết sống chết ra sao. Tao phải làm cho xong.”

“Xong cái gì?”

“Cái tranh. Có croquis của mày từ hồi còn ở Ngô Tùng Châu. Đẹp hết xẩy. Nhưng phải mướn xích lô, mới chở cho mày được. Tao đi xe đạp một mình, làm sao cầm.”

Có vài ly đế, chuyện cũ bắt đầu ấm. Trung kể:

“Bữa lang thang gần khu nhà cũ của bọn bay, tao gặp Nguyễn Đức Sơn. Nó mặc áo đà, đầu cạo nhẵn bong. Coi gồ ghê lắm. Nghe đâu trên núi vừa hạ san. Nhìn cái đầu trọc lóc, nhớ mày với nồi cá kho hồi ở Trương Minh Giảng, tao buồn cười quá.”

“Có duyên dữ. Bọn tao thì ngồi tù. Còn mày thì cười.”

“Bộ mày với thằng Từ không cười à.”

Cũng phải cười thật. Nguyễn Đức Sơn, hồi trẻ ký là Sao TrênRừng, cùng đăng thơ trên các tạp chí Hiện Đại, Thế kỷ Hai Mươi, Văn Nghệ thời sáu mươi. Anh có tài lạ: Ngồi yên, hai tai nhúc nhích rồi phe phẩy như hai con bướm. Thấy tôi phục quá, có lần anh còn dọa có thể vận công cho tóc dựng đứng lên được. Thơ Sơn cũng như người, nhiều bất ngờ kỳ dị.

Năm 1961, có hồi Trung thất tình, về khu cầu Trương Minh Giảng ở với vợ chồng tôi. Hai đứa đi làm, Trung ở nhà rầu rĩ, thường phụ tá tôi chợ búa, nấu nướng. Có khi còn trổ tài một mình, chế được nhiềumón ăn lạ. Thấy Nguyễn Đức Sơn giang hồ, than đói,

Từ kêu Sơn mỗi ngày tới bữa, đạp xe đến nhà cùng ăn.

Được vài tháng vui vẻ, bỗng thấy Nguyễn Đức Sơn biến mất. Một mảnh giấy quăng vô cửa:

“Gửi mấy đứa khốn nạn. Tao biết thừa rồi. Chúng mày có nồi cá kho. Thấy tao tới, giấu biệt đi không dám mang ra ăn. Chúng mày giấu cá kho để tế mồ mả cha ông nhà chúng mày.”

Ba đứa nhìn nét chữ nguệch ngoạc của anh bạn, ngơ ngác một lát rồi phá ra cười. Thư được đọc đi đọc lại, đứa nào cũng thuộc lòng. Bao nhiêu năm sau, giờ này nhắc lại, cũng vẫn còn cười được.

Dạo ấy, trưa đi làm về, tôi phải ba chân bốn cẳng ghé chợ Trương Minh Giảng, mua tí rau, tí cá. Cá đang kho trên bếp chưa kịp chín, đã phải ăn cơm trước cho kịp đi làm. Thấy mùi cá kho mà không được ăn, thi sĩ nổi ngay cơn lôi đình, bỏ quách Saigon lên giang hồ trên núi.

Ít năm sau, nhận được thư Sơn gởi từ Blao. Không nói chuyện cá kho nữa, Thi sĩ đòi gửi ngay thơ lên cho anh để anh viết lại văn học sử.Đọc những bài thơ Nguyễn Đức Sơn sau này, chúng tôi biết anh đã vợ con đề huề. Có thơ điên vì mẹ cằn nhằn vợ, vợ cằn nhằn mẹ. Lại có thơ thiền:

Sáng mênh mông
Ta đi dạo
Giữa vườn hồng
Ồ bông
Ồ mộng
Ồ không.

Trung kể thêm về Nguyễn Đức Sơn:

“Bọn bay đi tù. Nó cũng đi tù vậy. Nghe kể, nó để vợ con đâu trên núi, một mình hạ san tìm lương thực. Coi bộ vó kỳ dị quá, bọn công an bắt nó khai hai ba lần. Có lần đánh gẫy cả xương sườn. May mà bắt chán nó lại thả.”

Tội nghiệp. Đã biết lên non cạo đầu rồi, thi sĩ còn hạ san làm gì, đến nỗi bị công an đánh gẫy cả xương sườn. Những năm sau này, nghe đâu Nguyễn Đức Sơn còn mang vợ con giấu hết vô hang núi, sống như người thái cổ, không tiếp xúc với đồng loại nữa.

Rượu ngấm. Trung bốc:

“Mày dám ngồi sau xe đạp không, tao chở. Về đằng tao lấy tranh.”

“Mày dám chở là tao dám ngồi. Xê I A mà sợ gì xe đạp.”

Xe cà tàng. Trung vừa thở vừa đạp. Vợ chồng Trung ở Đa kao. Đoạn đường đủ dài để nhớ bao nhiêu chuyện.

Anh chàng họa sĩ Nam kỳ dễ thương của chúng tôi, không dè lại mang thân làm rể một danh gia Bắc kỳ. Anh em nhà vợ đều tài hoa xuấtchúng, học giỏi, hát hay, có người là cầm thủ nổi tiếng thế giới. Ông nhạc quá cố là nhân vật lừng lẫy một cõi, có thái ấp riêng, triều thần binh tướng riêng, từng làm nghiêng ngả thời cuộc Bắc Hà, cho tới khi bị cộng sản ám sát chết.

Năm 1975, cả nhà vợ di tản. Riêng Trung lắc đầu. Lĩnh Mai bấm bụng ở lại theo chồng, tiếp tục lãnh biết bao cơ cực.

Sau này, có bạn hữu đóng sẵn tầu, kêu Trung cho vượt biên ké, anh vẫn tiếp tục lắc. Hỏi. Trung cười:

“Tao từng là người vượt biên đầu tiên ở Việt Nam. Bây giờ chán rồi. Thời thế không ăn nhậu gì đến tao, Tao khoái cởi trần, đi ra đi vô ở Saigon, khổ cực mấy cũng chịu.”

Quả có chuyện ấy. Sau vụ Nguyễn Đức Sơn nổi giận lên núi, năm 1962, tới phiên Trung nổi máu phiêu lưu:

“Thôi, hai đứa bây ở lại mà sanh con đẻ cái. Tao chán đất này rồi. Không chừng sẽ có tin tao từ Paris.”

Vậy là biến. Trung cùng hai họa sĩ khác, hình như cùng họ Nguyễn, rủ nhau vượt biên đường bộ sang Cao Mên, chắc mẩm sẽ lê la tới Paris như Chagal, người họa sĩ Nga lưu vong mà Trung vốn yêu thích.

Paris đâu chả thấy. Cuộc vượt biên trái mùa (so với thời cả nước vượt biên sau 1975, sớm sơ sơ mất có….mười lăm năm), nghe đâu chỉ đưa ba chàng họa sĩ phiêu lưu tới được mấy nhà tù nào đó bên xứ chùa Tháp.

Ba năm sau, nhà Ngô đổ, chiến tranh lan rộng, Trung trở lại Sài Gòn. Thời thất tình đã qua. Bên cạnh Trung lúc này là một tiểu thư áo trắng kiều diễm, sắc sảo.

Vô nhà, bồng cháu Sớm Mai hai tuổi trên tay, Trung chửi:

“Con mẹ mày. Ở đâu ra mà có mày lẹ vậy. Hơ. Hơ. Con ạ cô Lĩnh Mai đi. Nào. Giỏi.”

Cô Lĩnh Mai áo trắng leo tuốt lên cây trứng gà trong sân nhà hái trái.

Năm sau, đám cưới thân mật ở trụ sở sinh họat thanh niên trong khuôn viên đại học văn khoa cũ.

Từ 1958, trong đám bạn bè đua đòi văn chương, Trung vừa vẽ, vừa viết những bài phê bình hội họa cho tạp chí Sáng Tạo, rồi Văn Nghệ.Các bậc trưởng thượng Nguyễn Đức Quỳnh, Thái Tuấn, … coi tranh Trung, đều bảo đây là tài ba khác thường.

Vượt biên hụt trở về, một mảnh giấy tờ tùy thân cũng không có, vợ chồng Trung đã trải qua những năm khó khăn suốt thời chiến. Nhưng sơn dầu Nguyễn Trung được coi như một tiêu biểu cho thế hệ hội họa mới mẻ, tài ba ở miền Nam. Chính thế hệ ấy cũng công nhận điều này. Trung trở thành chủ tịch hội họa sĩ trẻ, rồi đựơc nhìn nhận là bậc thầy ở cao đẳng mỹ thuật, ngôi trường mà anh đã bỏ ngang thời trẻ.

Ít lâu sau ngày cộng sản vô Sài Gòn, các chuyên gia sưu tập mỹthuật Nga, Đông Âu, rồi Bắc Âu ngả nón trước sơn dầu Nguyễn Trung. Nghe kể viện bảo tàng quân đội Nga ở Moscou nhất định phải có bằng được tranh Nguyễn Trung. Hội mỹ thuật rồi bảo tàng nhà nước bổn xứ noi gương. Tính Trung vốn nhỏ nhẹ, chẳng bao giờ chú ý đến thời thế, lại quen sống thanh bần, không làm ai xốn mắt. Có lẽ nhờ vậy, anh chàng chủ tịch hội họa sĩ miền Nam thoát được cái nhãn xê i a.

Cô Lĩnh Mai áo trắng ngày nào, lỡ chọn phải ông chồng nghệ sỹ, đã thành một bà vợ tần tảo, vất vả. Thấy Trung ì ạch chở được tôi về tới nhà, Mai cười:

“A. Đây rồi. Bà biệt kích văn hóa. Em trông chị mãi. Lên gác ngay.Ông ấy hì hục với cái portrait của chị mấy tuần lễ đấy. Hết xẩy. Ai thấy cũng lé mắt.”

Trên căn gác gỗ ọp ẹp, bụi bậm, bức tranh dựng giữa đống chai, hũ sơn cọ ngổn ngang. Tôi đó sao, con mụ tóc tay tơi tả, chân tay xù xì ngồi bó gối chịu trận?

Trung bật ngọn đèn, chiếu vào tranh, cằn nhằn:

“Hết cha nó vải bố. Phải hy sinh cái tranh cũ, vẽ phủ lên. Mầu lại thiếu, dầu cá cũng cạn. Chất sơn vì vậy không mịn màng được, lại hóa ra hay. Trịnh Công Sơn ngắm hoài. Hắn kêu dữ. Không biết tranh dữ hay mày dữ. Thật chỉ thiếu cái bê rê xanh là y chang biệt kích. À Sơn hắn lại mày chưa?”

“Có ghé thăm. Hôm kia.”

Biệt kích văn hóa là tên một cuốn sách do Trần Văn Giầu, Vũ Hạnh, Lữ Phương…viết về mười tác giả miền Nam. Trong sách này, nữ biệt kích duy nhất là tôi, được xếp hàng thứ sáu. Những người khác là Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, Doãn Quốc Sỹ, Nhất Hạnh, Võ Phiến, Duyên Anh…

Lĩnh Mai giúp chồng trải giấy gói báo chân dung biệt kích.

“Nữa.” Trung tiếp tục kể. “Sau khi bọn mày bị bắt, có bữa tao đang ngồi vẽ mày, Mai Thảo ghé qua. Lâu lắm rồi không gặp lại. Nghe nói bọn nó vẫn đang lùng bắt chả gắt lắm. E khó thoát quá.”

Cả năm rồi. Vẫn tiếp tục lùng bắt. Đúng là Mai Thảo chưa sa lưới. Cuối năm, ngày ngắn. Trời chập choạng tối. Trung lại ì ạch đạp xe, chở dùm cả người lẫn tranh về tận nhà.

….

Anh chị Hoàng Anh Tuấn và Toàn mang tới một bạn trẻ người Pháp, tùy viên tòa lãnh sự.

Thời trước, chúng tôi có một bộ sưu tập nhỏ, gồm tranh của Trung và bạn hữu. Nhà cửa tan tác, tranh Trung chỉ còn sót ba tấm, thêm chân dung biệt kích vừa xách về là bốn. Cả bọn xem tranh.

Cùng tên với một danh họa Pháp, Bernard khoái sơn dầu. Chị Tuấn nói chàng ta có một bộ sưu tập tranh Việt Nam khá đồ sộ, hẹn cùng lại coi.

Cả bọn kéo lại nhà Bernard. Tất cả tranh được hạ xuống từ trước, úp mặt vô tường. Gia chủ dí dỏm giải thích với chị Tuấn:

“Coi tranh Nguyễn Trung ở nhà bà Nhã Ca rồi, ngượng lắm, không thể khoe bộ sưu tập này được. Thay vì tranh, xin mời coi tủ rượu.”

Có thể chính là do Bernard, tranh “Chân dung biệt kích” ngày càng nổi tiếng, nhiều khách ngoại giao tới yêu cầu cho coi.

Hoàng, tay buôn đồ cổ và tranh dẫn đầu khu Tự Do, mấy lần tới nằn nì chị để cho em, giá đề nghị 500 rồi 1,000 đôla. Số tiền này, thời điểm ấy là cả một gia tài. Nguyễn Trung trở lại, chửi thề:

“Đù má. Được quá. Tao với mày chia hai.”
vầ nhà báo, nhà văn nữ 

Ngồi thêm một lát, cả hai cùng lắc đầu:

“Không thể để mất tranh này được. Dứt khoát. Giữ.”

Trung lấy sơn, viết nguệch ngọac bên góc trái tấm tranh: “Chân dung Nhã Ca, 20.4.76.” Khoảng ngày này, tôi đang nằm trong cát sô sở công an thành phố.

Anh chàng Bernard trẻ tuổi dễ thương thường lui tới, chở cả bọn trẻ con về nhà riêng ở khu biệt thự Pháp, đường Phan Thanh Giản, đùa nghịch trong hồ bơi, hoặc tới nhà chúng tôi đàn hát om xòm với chị em Sớm Mai. Công an tức thì ập vô nhà, hạ lệnh không được tiếp xúc với ngọai quốc. Xe riêng Bernard bị chận xét khi chở lũ nhỏ. Chàng trẻ tuổi máu nóng, cự lại dữ dội, suýt thành to chuyện.

Vẫn không tởn, Bernard bảo Sớm Mai:

“Mẹ cấm cửa, mới sợ. Chúng nó không cấm được tao.”

Thay vì vô nhà, Bernard kéo bọn nhỏ ngồi ngay trên thềm nhà ở vỉa hè, ăn uống cười giỡn.

Chỉ ít lâu sau, Bernard được lệnh phải rời khỏi Việt Nam.





NHÃ CA




















Tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài





Les Canons Tonnent La Nuit

Đêm Nghe Tiếng Đại Bác
 Liêu Trương chuyển ngữ sang tiếng Pháp
Nxb Philippe Picquier 

















The Short Timers
Đoàn Nữ Binh Mùa Thu
Barry Hilton dịch sang tiếng Anh






























Phim
Land of Sorrows

Đất Khổ 1973

Đạo diễn: Hà Thúc Cần

Diễn viên chính: 
Trịnh Công Sơn, Bích Hợp,Vân Quỳnh, Lưu Nguyễn Đạt,
Kim Cương, Lê Thương

Với sự có mặt của 
 Sơn Nam, Vũ Thành An,
Thành Lộc (khi mới 8 tuổi)


Phim dựa theo truyện Đêm Nghe Tiếng Đại Bác và Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca


(...)

source: Phan Nguyên Blog ' s



================


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét