Thứ Năm, 21 tháng 1, 2021

bài đọc thêm : ...' Nguyễn Thị Hoàng ( tác giả" Vòng tay học trò" trở lại - " Định mệnh gõ cửa ") -- nguồn : nhacxua.vn>

 

Nữ văn sĩ Sài Gòn trước 1975 – Nguyễn Thị Hoàng (tác giả Vòng Tay Học Trò) trở lại – “Định mệnh còn gõ cửa”)


nguồn: nhacxua.vn>

Nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng đã trở lại cõi giới văn chương sau gần nửa thế kỷ hầu như im tiếng (nếu không kể đến một vài cuốn rời rạc). Tác giả của tiểu thuyết đình đám một thời: “Vòng Tay Học Trò”, là 1 trong 5 nhà văn nữ hàng đầu của Miền Nam trước 1975 (cùng Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trùng Dương) đã chính thức trở lại với những người yêu văn chương, và hơn thế, những người còn muốn một lần chìm đắm vào (dù chỉ là một thoáng) bãi êm đềm và lay động của văn chương miền Nam (kiếp trước).

Với một văn phong đặc trưng: “ảo não rung động”, hoặc “kiều diễm và thơ mộng”, nhưng đằng sau những con chữ là nỗi quay quắt và cuộc đuổi bắt để truy vấn chính bản thân nhân vật và người đọc, hoài nghi về (những) ý nghĩa của cuộc đời, hoặc giả chăng truy vấn… chính cuộc đời!

Trong một lần trả lời phỏng vấn của tạp chí Văn, tác giả có nói: “Còn dự định lớn? Hoàn thành định mệnh như trời muốn!”

Sau ngần ấy năm im vắng, im vắng trong ẩn nhẫn – sự ẩn nhẫn “đội một hòn than chôn chân sầu đứng đợi” như trong lời một bài hát của Nguyễn Đình Toàn chăng? – (nhưng, đối với Nguyễn Thị Hoàng, “bất động cũng là hành tung của một kẻ ẩn mình”), có lẽ định mệnh đã một lần nữa “gõ cửa”, và phải chăng người nữ sĩ ấy thấy đã đến lúc cần “hoàn thành” điều “đó”, đã đến lúc “làm cho xong hết cuộc tiễn đưa” – tất toán một “dự định lớn” – (và cuộc hồi đáp này, sau 2 quyển sách của “lần đầu”, hứa hẹn sẽ là 2 “bom tấn” lớn của chính bà: Người Yêu Của Đấng Trời và Nhật Ký Của Im Lặng).

Trở lùi lại với một trong những cuộc phỏng vấn hiếm hoi sau 1975 (thực hiện bởi nhà văn Mai Ninh), tác giả đã từng bộc bạch:

“Một tác phẩm có mặt từ ba yếu tố: nghĩ (hay cảm), viết, và in. Nghĩ thì như thở, càng bị rượt đuổi vây khổn, càng dập dồn, chồng chất. Viết ra thì khó liên tục nếu ăn ở không yên và chèo chống không ngừng với mọi vấn đề. Nếu vượt hai điều trên được, lại phải đứng dừng trước bức tường thứ ba: in ra, ngoài khả năng của một tác giả tận cùng đơn độc, trong mọi nghĩa. Khi qua đi một khúc đoạn ở cuộc đời hay nỗi niềm riêng, Nguyễn Thị Hoàng vẫn ngạc nhiên là mình vẫn còn sống và câu hỏi duy nhất là làm sao để in ra, cũ và mới những gì đã ứa ra từ quá trình sống… chín này.”

Thời may, giờ đây, cuộc “vượt thoát” hình như đã bước đầu thành hình, 2 tuyển tập thơ và văn gom lại những quá vãng và trăn trở của tác giả:

“Thời của những khúc viết này ngắn ngủi từ 1967 đến 1972, với những tuyển tập truyện ngắn Trên thiên đường ký ức, Cho những mùa xuân phai, Đất hứa, Vết sương trên ghế đá hồng, Dưới vầng hoa trắng… Nửa thế kỷ im lìm, khuất bóng cho tác phẩm, người đọc và người viết cuộc đồng hành dang dở. Nhưng tất cả vẫn còn đâu đó truân chuyên và cách trở, trong âm vang mơ hồ của ký ức, từ ấy đến bây giờ và còn mãi cho đến ngày tro bụi bay lên thoát cõi người.

Trên Thiên Đường Ký Ức đứng tên cho toàn tập, vì là chút di sản tinh thần bé nhỏ thương yêu, ôm trọn thời ấu thơ, đã như bóng ảnh đồng hành vô hình nuôi dưỡng, nâng đỡ và che chở cho người viết suốt đường đời qua mê lầm, oan khiên, bạc đãi, ngộ nhận, của khổ nạn triền miên tâm và cảnh. Khách quan sẽ chẳng nhìn thấy gì trong đó, nhưng với người viết lại, mỗi hình ảnh, mỗi vết tích nhỏ nhoi đều là một thiên đường trong nghĩa đơn sơ là đẹp đẽ nhất, thuần khiết nhất, tôn quý nhất đủ xúc động tâm cảm bùi ngùi tưởng tiếc…”

Một lần nữa, những truy vấn, những suy tư như những “tiếng im thoát ra từ niềm đau, như giọt máu ứa từ vết thương lặng lẽ” đã được gom nhặt từ những bài thơ quá vãng, và từ những truyện ngắn tâm đắc nhất của nữ sĩ… hồi sinh, trong một cõi khác: sau phần thư, sau thất tán, sau nát tan… cũng đã là đủ để một lần bạn và chúng ta cùng “nghiêng vai soi lại cuộc đời” qua những áng văn thơ của một trong những gương mặt sáng giá nhất của nền văn chương miền Nam rực rỡ!

Thông tin sách:

Với lần xuất bản này, ngoài những bản thường có ruột in 2 màu trên giấy Ford kem định lượng 80 gsm, New Viets còn ấn hành 300 bản đặc biệt với bìa cứng trên giấy Kraft 80 gsm, bìa áo giấy Cal 180 gsm, đánh số từ NTH–001 đến NTH–300, với chữ ký kèm tên và dấu triện của tác giả.

Huyvespa

Lời tựa cho tập truyện TRÊN THIÊN ĐƯỜNG KÝ ỨC

Thời của những khúc viết này ngắn ngủi từ 1967 đến 1972, với những tuyển tập truyện ngắn Trên thiên đường ký ức, Cho những mùa xuân phai, Đất hứa, Vết sương trên ghế đá hồng, Dưới vầng hoa trắng… Nửa thế kỷ im lìm, khuất bóng cho tác phẩm, người đọc và người viết cuộc đồng hành dang dở. Nhưng tất cả vẫn còn đâu đó truân chuyên và cách trở, trong âm vang mơ hồ của ký ức, từ ấy đến bây giờ và còn mãi cho đến ngày tro bụi bay lên thoát cõi người.

Trên thiên đường ký ức đứng tên cho toàn tập, vì là chút di sản tinh thần bé nhỏ thương yêu, ôm trọn thời ấu thơ, đã như bóng ảnh đồng hành vô hình nuôi dưỡng, nâng đỡ và che chở cho người viết suốt đường đời qua mê lầm, oan khiên, bạc đãi, ngộ nhận, của khổ nạn triền miên tâm và cảnh. Khách quan sẽ chẳng nhìn thấy gì trong đó, nhưng với người viết lại, mỗi hình ảnh, mỗi vết tích nhỏ nhoi đều là một thiên đường trong nghĩa đơn sơ là đẹp đẽ nhất, thuần khiết nhất, tôn quý nhất đủ xúc động tâm cảm bùi ngùi tưởng tiếc, ngôi nhà và những lối đi trong trường Khải Định Huế, tòa Tịnh Cư Đường nguy nga ở Quảng Trị, làng quê nội ngoại thời tản cư, cuộc hồi cư trở về nơi chốn cũ tan hoang… những năm bốn mươi.

Những truyện ngắn, nội dung, tầng bậc và tính cách khác nhau, thường khởi nguồn từ một thoáng thấy về cảnh (Rừng lao xao) hay người (Trên miền xanh lá cây), một xúc động từ cái đẹp (Thành lũy hư vô), một cảm kích tương giao, nỗi niềm ấm ức không thể nói trong đời sống thật (Nắng bên trời, Bọt biển), từ chiêm bao ứng hiện (Đất hứa)… Chỉ là như thế, nhưng chứa đựng được ít nhiều suy nghiệm về con người cuộc sống và những băn khoăn trong nội thể âm u, hoặc những ước mong, tưởng tiếc bồi hồi (Đêm tàn oanh trảo)… hoặc ẩn dụ về tình yêu và sự chết (Tan theo sương mù). Chung thủy tuyệt đối dẫu làm sống được cái chết vẫn sẽ chấm dứt khi hình bóng khác thoáng qua tâm tưởng, chia lìa cuộc hợp nhất âm dương.

Không chỉ sống hay chết mà còn hay mất nhau trong tương quan khi không còn niềm tin vào tuyệt đối thiêng liêng. Nên bóng dáng sống trong chết biến tan theo sương mù ảo giác của kẻ tưởng chung tình.

Không gian hay bối cảnh những chuyện này quanh quẩn Saigon, Đà Lạt, Nha Trang, ba cạnh một tam giác con đường về đi cũ mòn của người viết. Thoáng bóng Đài Bắc (Dưới vầng hoa trắng, Bóng lá hồn hoa), Osaka (Dòng sông chết, Bóng ma), Kyoto (Tan theo sương mù), Seoul (Rừng lửa đen, Mùa xuân một lần), hoài niệm chuyến đi năm 1970.

Dòng truyện ngắn này chấm dứt, khoảng 1972. Về sau, khi viết lại hay viết tiếp, như con người và cuộc đời, những trang viết đã chuyển thể qua một tính cách và tầng bậc khác, khó gọi tên đúng là gì, nên tôi vẫn là tôi mà tôi ấy không thể nào là tôi này nữa. Tế hệ đọc những trang cũ ngày xưa đã già cỗi hoặc lụi tàn. Tuổi trẻ ngày nay sẽ hoàn toàn xa lạ và có thể vô cảm với mớ đồ cũ trên tay, nhưng qua dòng trôi chảy của thời gian và thế sự, biết đâu vẫn còn có ai vớt lại chút bọt bèo

mong manh của quá khứ. Chút bọt bèo có thể sẽ là mầm xanh cho mùa hoa trái mới, cũng có thể là phiến hóa thạch vô tri vì cuộc đợi chờ vô vọng mấy mươi năm mà kỳ thực đã mấy nghìn năm bên bờ ảo hóa.

Nguyễn Thị Hoàng

2019

Lời tựa cho tập thơ MÂY BAY QUA TRỜI XƯA

Nói với…

Thơ là tiếng im thoát ra từ niềm đau, như giọt máu ứa từ vết thương lặng lẽ. Là tiếng vọng thiết tha của yêu thương, bâng khuâng của tưởng tiếc những vẻ đẹp, nguồn vui đã đến rồi đi mất hút suốt đời. Đôi khi cũng là tiếng gào la thống hận, hay tiếng vang lừng ca ngợi hân hoan. Là tiếp điểm của cảm ứng giữa con người và thiên nhiên, mối nối êm đềm giữa nội tâm cùng ngoại giới. Là nguồn xúc động ngắn ngủi hay dài lâu của chủ thể và tha nhân, khi tình cờ bắt gặp hay tìm kiếm được đáp số trên hành trình thao thức chờ mong.

Nên, thơ là nguồn xúc động, phản chấn bên trong từ một hiện tượng, sự kiện, tình thế bên ngoài, hoặc một bất ngờ hiện tại vang dội từ đáy thẳm hồi ức và hoài niệm. Cuộc bốc thoát và trôi lướt hồn nhiên của ý trên dòng êm vô thức ấy, dẫu lặng mà không tịnh vì huyên náo âm vang khắp thần trí và tâm can người cảm niệm.

Krishnamurti nói chỉ trong định tĩnh mới phát sinh hiện thể sáng tạo. Ngược lại, với thơ không thể nào định tĩnh được. Cũng không một hiện thể nào. Lại càng không có bất cứ sáng tạo nào. Vì, thơ không nhờ làm ra mà có.

Người ta vẫn nói làm thơ. Chỉ có thể làm bàn ghế, cá thịt, nhưng không thể làm ra thơ, trừ một số trường hợp thơ bị biến dạng dưới những chủ đề được đặt định sẵn do tình thế bắt buộc, như thời xưa là thi cử, thời nay là nhóm họp, tuyên dương… thành vịnh, thành vè… dù vẫn khoác sắc màu và vần điệu của thơ. Với thơ, có thể có và cũng có thể không một hiện thể. Vì sự cảm nhận đôi khi từ vô hình vô ảnh, những thấp thoáng âm vang thành cuộc hòa âm triền miên trong cõi tâm tình.

Nếu tiểu thuyết giới hạn trong mô hình của chủ đề thì thơ mông lung vô tận như mây trời, vì là cuộc vỡ tràn của uẩn thức nương theo vay mượn ngôn từ của ý thức bốc thoát ra cõi hữu hình xa lạ và đôi khi đối nghịch. Vì thế thơ phải hoàn toàn được tự do về ý tứ diễn tả, trừ những thể loại tất yếu chìu theo âm luật của thơ. Và cũng không thể uốn ép thơ như tóc đàn bà theo kiểu mẫu của người nhìn ngắm. Cũng đừng thắc mắc dò hỏi từ đâu và tại sao. Vì, nó như thế là như thế.

Vấn đề là cảm hay không cảm. Có thể cảm mà không nhận. Có thể cảm và nhận thì cảm nhận ấy sắc phong thơ thành hòa điệu vô thanh của những tâm hồn cách trở mà vẫn có thể cùng nhau. Liên quan, ngoài làm thơ còn chuyện nhà thơ. Những tên tuổi lớn trùm phủ văn học Pháp thế kỷ 19 như Lamartine lãng mạn và thanh thoát, Alfred de Vigny dữ dội và nồng nàn, nặng nề và trầm trọng như Beaudelaire… đích thực là những nhà thơ… Và sau đó là Gérard de Nerval, John Keats… những mái nhà thơ trên không gian và thời gian thế giới xưa kia bây giờ và mãi mãi.

Ở ta, một thế giới thơ tôn nghiêm quý giá như Nguyễn Du với Truyện Kiều, hay thiết tha thâm trầm tài hoa như Đoàn Thị Điểm với Chinh Phụ Ngâm không ai gọi là nhà thơ, chỉ cụ và bà. Trong những tác phẩm ấy, từng khúc đoạn, từng câu từng chữ, diễn tả là của một nhà thơ bậc nhất.

Thời nay, chỉ vài ba tập in mỏng manh, có khi chỉ một ít bài rải rác đó đây, vẫn được hay bị gọi là nhà thơ. Vì sao? Ai hiểu biết và quý yêu thơ, có thể cũng công nhận một điều. Bản chất của thơ không cần dấu huyền. Nhưng cũng đừng ném cho thơ dấu nặng. Bởi vì thơ chỉ là dấu hỏi. Là thở. Là hơi thở, thở ra, thở dài hay thở than. Chỉ để gởi trao từ cõi trong ra ngoài niềm xúc động chứa chan, nỗi trầm uất nghẹn ngào, niềm hân hoan thoát khỏi nguồn cơn không nói được bằng lời lẽ thông thường với trần gian thế tục…

Lời giải trình mong được hiểu, những trang muộn màng này, Mây bay qua trời xưa là gì và tại sao… Từ lớp nhất (lớp 5 bây giờ) trường Đoàn Thị Điểm, Huế, những bài thơ rỉ rả đầu tiên, không vì đâu vì sao viết vào trang vở xé, nhét xuống hộc bàn, bỏ quên đâu đó, rồi những bài được gọi là thơ khởi nguồn từ lớp đệ ngũ (lớp 7) Đồng
Khánh, bạn bè và cô giáo bắt gặp chuyền nhau đọc, in lên bích báo trường, chép lén chia nhau… Người viết ra không có và cũng chẳng nhớ bài nào. Chỉ một câu trong Tình vật lý cô giáo khen ngợi ngâm nga “ai bình phương cường độ của lòng đau”, toàn những chữ của bài đã học. Mười bốn tuổi chưa có lòng thì lấy gì đau, thật là… láo toét. Cũng có thể là dự báo thời tiết cho cuộc đời bất ổn mai sau. Cùng thời là bài Chi lạ rứa. Bạn bên cạnh chép, rồi truyền đi, lớp này, lớp khác. Người viết lại không có và không nhớ, trừ một vài câu nghe mãi xung quanh “chi lạ rứa chiều ni tui muốn khóc. Ngó chi tui đồ cỏ mọn hoa hèn”. Nói cho văn vẻ thôi, không là cỏ mọn, hoa hèn gì đâu. Thơ biến mất nhưng nguyên nhân thì còn lại. Ngồi tựa gốc cây phượng sân trường giờ chơi nhìn ra lối vào bên kia bãi cỏ, người đi vào lững thững đứng lại nghiêng đầu nhìn không đăm đăm nhưng lâu hơn một
thoáng, mỉm cười… Có vậy thôi mà “chi lạ rứa bên ni bờ tui khóc”…

Cho đến khoảng 1960, nhóm Bách Khoa của Lê Ngộ Châu, tình cờ mà cơ duyên, tìm được và tóm gọn những bài thơ đầu tiên trong mấy tập thơ viết tay bị lấy mất. 1964 là chuyển đoạn qua cuộc trường kỳ kháng chiến phu thê, thơ biến mất nhường lời cho tiểu thuyết (Nguyễn Hiến Lê gọi Nguyễn Thị Hoàng là tiểu thuyết gia, mấy người khác còn gọi là văn hào, đại văn hào, thật hay đùa không cần biết nhưng vẫn được trả lời vui vẻ, đúng rồi, thêm giùm chữ g, là văng đại xuống hào).

Những năm 70, rồi 80, 90, thơ sống lại từ những nguồn cơn và tâm cảnh khác, thoi thóp và bất thường như hơi thở khi triền miên khi đứt nối chập chờn. Thật ra, từ 90, thơ theo dòng những biến chuyển khác, cuộc đời và cảm nghĩ, dần dần ra khỏi những ác mộng triền miên, thấy biết mà chưa thể lên đường phương hướng mới.

Vì, khi vui thì ngộ nghĩnh:
trong quán cà phê
có một người ngồi
nhìn qua phía tôi
trong tôi
có một quán cà phê
nhìn về phía khác
Khi buồn thì thương thân:
vầng lá xanh ngoài kia của ai
cây tôi diệp lục tố khô rồi
có người bỏ vắng đời như ngõ
từng bước đi về cõi nhạt phai

Dấu vết trên đường đi của một con người qua số mệnh, mỗi một có vẻ như chính là nhưng chẳng phải. Như mỗi hạt ngọc hay đá không là xâu chuỗi, mà phải liên kết bằng sợi dây ẩn khuất bên trong mới biết được là gì. Từ những than van rên rĩ vì những biến cố tội phúc đầu tiên, đến lời câm trách oán về lối rẽ bất ngờ từ nợ duyên tiền kiếp, giây phút hồi sinh xao xuyến vì vẻ đẹp tương giao thoáng qua thân ái xa vời, trở về ngõ đời phận sự tắt tiếng im hơi. Một thời dài chìm đắm viết để sống mà không bao giờ được sống để viết.

Rồi đêm mưa khởi đầu cơn ác mộng triền miên. Thơ trở về nỉ non, tha thiết, đắm đuối, mơ say… Toàn thể tâm thức và tình thế của một thứ người nín sống từ lâu tỉnh dậy. Chỉ là tỉnh dậy trong chiêm bao để nương tựa và phóng hóa tương đối thành tuyệt đối, để tìm lại mình, để níu lại đời. Cho đến khi đêm dài dứt nẻo, ngày trở về nguyên sơ thể tính bình minh. Qua những khúc đời lưu chuyển ấy, thơ đến rồi đi, không giữ gìn không ước
hẹn. Đến, từ một xúc động bất chợt mong manh vẻ thoáng hiện sáng ngời của bóng dáng, sợi nắng, giọt mưa, cơn gió, bông hoa, bờ rêu, vệt cỏ… Trên tất cả thường là một hình tượng mơ hồ ảo giác không bao giờ có thật trên đời, hoặc có thì cũng chỉ là lầm tưởng. Những lúc ấy thơ như con dã tràng trên bãi cát, chụp bắt nhanh hoặc biến mất vào những lỗ sóng xoi mòn. Nên vớ phải bất cứ thứ bút gì, mảnh giấy vụn nào, tờ lịch xé, mẩu hóa đơn… ghi nhanh có khi trong đêm chưa kịp bật sáng đèn, ngoài đường đi, trên xe tàu, bãi bờ, bất cứ lúc nào và bất cứ nơi đâu, hứng đón lấy khi nó ứa ra, như giọt máu từ vết thương, nước mắt khi hoài niệm, mồ hôi thời bửa củi trên rừng… Chỉ cần thở ra được hơi thở lửa nén vào lúc ấy. Sau đó, những mảnh rời vất bỏ, mất mát, lẫn lộn vào đâu trong mớ bản thảo cùng chôn vùi rách nát mấy mươi năm.

Cho nên, những trang sau, dù tuần tự xếp hàng theo dòng thời gian từ ấy đến bây giờ, sáu mươi đến sắp sửa hai mươi, vẫn chỉ là chứng tích tan tành của những khúc đoạn thác ghềnh trôi chảy không êm đềm của vượt thoát. Chỉ là những mảnh gương vỡ tan tành chẳng đủ soi thấy gì dưới kính hiển vi đã mờ đục của trần gian.

Chỉ là, dừng lại cuộc chạy – chạy mà không đua – suốt một cuộc đời không được giống bất cứ đời nào khác, thử nhìn lại giấc chiêm bao vừa ngắn ngủi vừa lê thê qua những trang thơ vô chủ như tờ rơi suốt dọc đường đời. Vô chủ vì thơ đúng nghĩa là tác phẩm văn học thường có chủ đề hay chủ trương, riêng Mây bay qua trời xưa thì rõ là hoàn toàn… vô chủ.

Dù sao, vẫn mang ơn những cơn đau trong ác mộng đã chuyển thành thơ và những thương tích từ thực tại đã chuyển Tình qua Đạo. Trên cao, mây bay đi, trời vắng, nhưng rồi mây khác đến, nhờ thế mà trời còn. Dưới đời, mây đã bay đi, không mây khác đến, hoặc nếu có cũng trượt khỏi Miền Không Tịch Tịnh. Để chỉ còn lại Tĩnh Lặng. Hoàn toàn tĩnh lặng sau những ngàn năm gió bão tơi bời. Đôi mắt của Tĩnh Lặng ấy có thể nhìn xuyên suốt (không phải xuyên thấu của thời trang!) nội tâm và ngoại giới bất chấp mọi đòn roi thực tại mãi hoài tiếp tục những bất công và bất thông quất ngược vào chút hình hài mong manh khách trọ trần gian.

Không bến bờ nào khác, không cõi giới nào khác, Tĩnh Lặng ấy, sau qua đi và đi qua tất cả, chính là Nơi Đến của Trời Mây.  ./.


nguồn: nhacxua.vn>


                                                  =================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét