Visit newvietart.com
So sánh dàn bài
LỜI TÁC GỈA.
Hiện tình văn nghệ miền Nam: 1957-1961- Thế Phong (34 trang khổ A4 in 50 ấn bản ronéotypé- Nxb Đại Nam Văn Hiến,Sài Gòn 1962), tác phẩm nhận định văn học riêng rẽ, không phụ thuộc bộ Lược sử văn nghệ Việt Nam: 1900-1956.
Tuy vậy, tập sách nhận định này vẫn có thể coi như phụ lục, bổ sung cho bộ sách phê bình văn học- làm sáng tỏ thêm tiến trình văn học miền Nam từ 1957 đến 1961. Sở dĩ tìm lại được tập sách nhỏ bé này- giáo sư Nguyễn Văn Trung ở Montréal copy một bản vào năm 2004, và nhờ Trần Thị Bông Giấy ở San José chuyển lại tác giả. Xin có đôi lời tri ân giáo sư Nguyễn Văn Trung và nhà văn Trần Thị Bông Giấy.
Trước khi cho đăng tải trên web: newvietart.com, người viết đọc lại, có sửa chữa.
THẾ PHONG .Chương 1.
Tiết 2
HỘI NGHIÊN CỨU LIÊN LẠC VĂN HOÁ Á CHÂU.
Hội Nghiên cứu liên lạc văn hoá Á châu thành lập năm 1957- gồm khoảng 200 giáo sư đại học, nhân sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo, bác sĩ, luật sư. Trụ sở đặt tại 201 Lê Văn Duyệt, Sài Gòn 1- cơ quan văn hoá Asia Foundation ( Hoa Kỳ) tài trợ trọn gói.
Giáo sư Nguyễn Đăng Thục chủ tịch, giáo sư Lê Xuân Khoa tổng thư ký, và quản lý trị sự là ông Trịnh Hoài Đức, cùng một số sáng lập viên khác.
Tờ nguyệt san Văn hoá Á châu xuất bản hàng tháng, trải qua ba thời kỳ:
1) từ 1957 đến 1959 : xuất bản được 24 số báo, chú trọng về văn hoá Việt nam và Đông nam Á . Tạp chí mở rộng giai đoạn đầu, bài vở của nhiều cây viết , giáo sư, nhà báo, chính trị gia tu sĩ không phân biệt tôn giáo, cùng các bài nghiên cứu phê bình văn học, triết đông, tây đều được đăng tải. Bắt đầu từ số 18/1960 , một vụ đạo văn đầu tiên ở miền Nam bùng nổ- ông Hoàng Trọng Miên tác giả sách Việt Nam văn học toàn thư (tập 1) đã chép nguyên sách Lược khảo về thần thoại Việt nam / Nguyễn Đổng Chi xuất bản trước ba năm ở Hà Nội.
Bài điểm sách lên án đạo văn gây dư luận văn giới, báo chí thật sôi nổi:
VIỆT NAM VĂN HỌC TOÀN THƯ của HOÀNG TRỌNG MIÊN
ĐƯỜNG BÁ BỔN viết.
Lần đầu tiên ở Việt nam, tôi được nhìn thấy một tác phẩm đẹp về hình thức ấn loát ở miền Nam. Đó là cuốn Việt Nam văn học toàn thư cuả ông Hoàng Trọng Miên . Công việc ấn loát sưu tập tài liệu tranh ảnh, trình bày đẹp như tác phẩm ngoại quốc.
Nói như ông Tam Ích:
“… những tác phẩm lớn cũng như con mãnh thú nơi rừng núi, những con thú có bề ngang, bề cao, nghênh ngang giữa cỏ cây, bộ mặt của chúng có vẻ hiền lặng lẽ…” (Ông Tam Ích trích lại của Gustave Flaubert, ó chú thích ở trang 1) . Hãy tạm đồng ý với ông trên phương diện hình thức và hiển nhiên là chưa bàn nội dung. Từ ngày cuốn sách ra đời, tôi đã đọc hai bài phê bình; một của một nhà văn biên khảo đăng trên một nhật báo; hai, của một giáo sư đăng trên tạp chi văn nghệ bán nguyệt san.
Bài thứ nhất: giọng phê phán không được bình thản lắm, chỉ trích chi tiết, thiếu nét nhìn tổng thể- còn thêm hơi văn uất hận, ghen hờn.
Bài thứ nhì: tưong đối tốt- một giáo sư phân tích theo lô gích khả luận Aristote thì có giá trị- nhưng khoe khoang cách xuẩn động.
Trước ông Hoàng Trọng Miên ba năm ( 1956) , ông Nguyễn Đổng Chi, tác giả Việt nam văn học cổ sử (Hàn Thuyên xuất bản năm 1943) cho ra mắt Lược khảo về thần thoại Việt nam (Văn Sử Địa Hà Nội xuất bản 1956). Tất nhiên trước hai ông còn những nhà khảo cứukhác, như Cesbron, A. Landes, Dumontier, Bonifacy, Grossin, Kemlin, Vial, Savina.. viết về lai lịch, thần thoại dân thiểu số, hoặc tác phẩm việt ngữ Nguyễn Văn Ngọc ( dịch) và sưu tầm truyện cổ ( Truyện cổ nước Nam ), Nguyễn Kinh Chi với Mọi Kontum( cùng viết với Viên Kha, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Dương Lịch, Lý Tế Xuyên) và Lĩnh Nam trích quái, quyển sách giá trị nhất về thần thoại tác giả Vũ Quỳnh vv…
Ở đây, tôi chỉ so sánh hai quyển: Việt Nam văn học toàn thư / Hoàng Trọng Miên và Lược khảo về thần thoại Việt nam /Nguyễn Đổng Chi mà thôi – hai quyển này có nhiều lý do quan hệ tương đồng.
Phải nói ngay rằng ai đã đọc cuốn khảo về thần thoại trên của ông Chi cũng hiểu được văn nghệ mác xít đúc cốt bằng lý luận chính trị. Cả đến cách kể chuyện cũng phải lồng lập trường mác xít vào chuyện kể. Nên ông Minh Tranh khi viết Sơ thảo lược sử Việt nam ( tập 2) đã giải thích lịch sử bằng con mắt người mác xít , ngụy biện sự kiện lịch sử ( chẳng hạn lịch trình tranh đấu sống còn của Việt nam với Trung hoa thống trị, ông đã biện minh một cách rất khéo léo cho sự hiện diện các đồng hương hiện đang có mặt tại miền bắc đỡ phần sượng sùng trước mắt dân việt). Chẳng riêng gì Minh Tranh, đến lượt Vũ Ngọc Phan cũng phải được học tập làm điều như các đồng sự thi hành, kể lại chuyện cổ và phân tích theo quan niệm mác xít.
Tất nhiên ông Nguyễn Đổng Chi cũng không thể làm khác hơn.
Vì lẽ đó, với một tài liêu A.Grossin chẳng hạn – khi ông Chi dùng tài liệu A viết lại, diễn dịch lại ý chính kể lại, thì tài liệu A mất bớt đi dành cho người kể chuyện theo tài liệu A xen vào thành ra B. Khi ông Hoàng Trọng Miên viết lại chuyện kể ( B) từ ông Chi lại trở thành C- và tài liệu C không thể giống như tài liệu A ( A. Grossin), B( Nguyễn Đổng Chi) nữa.
Bây giờ so sánh hai yếu mục, giữa quan niệm về thần thoại của hai ông Chi và Miên. Sau đó đến quan niệm kể chuyện theo thần thoại người dân Trung bộ ( Hà Tĩnh) của Nguyễn Đổng Chi. Ông Chi còn xác định thêm, những chuyện kể như Biên giới Văn Lang từ người dân kể lại không có trong tài liệu của người Pháp đã khảo về thần thoại việt. Vậy một khi ông Miên chép lại thì minh chứng tài liệu trên lấy ở đâu ra? Sách nào? nếu ông Miên không chứng minh được- không nói ra thì ai cũng biết - lấy từ sách của ông Chi- dựa trên những đỉểm:
1) văn thể, từ ngữ cùng một giọng .
2) cùng một quan niệm kể chuyện giống nhau.
3) chỉ khác nhau ở điểm: một người có lập trường mác xít; còn người kia không biết dựa trên lập trường nào?!
4) tài liệu duy nhất chỉ có sách Nguyễn Đổng Chi.
Trước hết, chúng tôi lập bảng so sánh giữa hai sách; rút ra một truyện điển hình(trong những truyện) mà ông Hoàng Trọng Miên đã đưa vào sách Việt Nam văn học toàn thư.
So sánh dàn bài
Lược khảo về thần thoại VN Việt nam văn học toàn thư
1) Thần thoại Mèo trang 83 1) Thần thoại Mèo trang 123
2) Thần thoại Mán 61 2) Thần thoại Mán 131
3) Thần thoại Lô Lô 61-64 3) Thần thoại Lô lô 135
4) Thần thoại Mường 67 4) Thần thoại Mường 110-117
5) Thần thoại Ba Na (Tây nguyên) 70 5) Thần thoại Ba Na 155-157
Phần thứ năm :Buổi khai mạc vũ trụ Phần 5: Vũ trụ và muôn loài
6) Thần trụ trời 75 6) Thần trụ trời 66
7) Thần biển 77 7) Thần biển 75
8) Nữ thần mặt trời và mặt trăng 85 8) Mặt trời và mặt trăng 66
9) Cuộc tu bổ lại các giống vật 88 9) Tu bổ các giống vật 71
10) Truyện Á Chức chàng Ngưu 93 10) Ả Chức 68
11) Sự tích thằng Cuội cung trăng 97 11) Thằng Cuội với cung trăng 67
Phần thứ 6: Gia phả của nhà Thần vẫn là Phần 5
12) Thần sét 101 12) Thần sét 62
13) Thần gió 108 13) Thần gió 65
14) Thần mưa 109 14) Thần mưa 63
15) Thần lửa 118 15) Thần lửa 65
16) Thần bếp và Truyện nhện làm vợ hạ thần bếp 120-122 15) Thân bếp 74-77
17) Thần núi 128 17) Thần núi 74
18) Thần nước * 138 18) Thần biển 76
19) Diêm Vương 137 19) Diêm Vương 81
20) Thần lửa * 138 20) Lửa và Cỏ 72
VII Thần thoại về Lạc Long Quân V: Thần thoại dật sử,Chương 2
21) Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân 141 21) Lạc Long Quân và Hùng Vương 87-91
Sự tích một trăm trứng 150
22) Truyện Mộc Tinh 148 22) Nữ thần Mộc 79
Phần 8: Dật sử đời Hùng Vương Phần thứ 5: Chuơng II
23) Sự tích núi Tản Viên 158 23) Thần núi Tản Viên 93
24) Truyện chiến tranh 24) Sơn Tinh và Thủy Tinh 95
25) Truyện đức Thánh Gióng 163 25) Thánh Gióng
* Những chữ in đậm ( bold) cốt để so sánh sự đặt tiêu đề mỗi truyện của mỗi tác giả, trước và sau. Nội dung truyện của người sau chép gần như đúng nguyên văn người trước.Qua bảng tóm tắt trên, hai mươi sáu bài trong Lược khảo về thần thoại Việt nam (Hà Nội 1956) đã được Hoàng Trọng Miên sao chép đưa vào Việt Nam văn học toàn thư xuất bản sau 3 năm ở Sài Gòn.
Sự thay đổi tiêu đề ( có khác chút đỉnh) , song nôi dung, văn, ý giống y hệt Hay nói cách khác đi, Hoàng Trọng Miên đã sao chụp nguyên tác sách Nguyễn Đổng Chi rồi đổi tựa sách, và thay tên soạn gỉả ( đạo văn) Hoàng Trọng Miên.
2.- SO SÁNH NỘI DUNG TRUYỆN THẦN THOẠI NGUYỄN ĐỔNG CHI & HOÀNG TRỌNG MIÊN
Sách Nguyễn Đổng Chi viết:
“…. Người ta kể chuyện ngày xưa có một ông lão đi vào rừng bỗng bắt gặp một bếp lửa của bà Thần luc đó đi đâu vắng. Ông ta mừng quýnh bèn chặt một ống nứa không ,đặt lên bếp lửa. Chỉ trong một chốc, ống nứa tự nhiên thấy cơm chín lại có cả thịt nữa. Ông bèn đổ ra lá ăn một bụng no rồi ngủ luôn tại đó. Chẳng dè trong khi ngủ say thì bà Thần bất chợt trở về. Thấy có người lạ khám phá ngọn lửa màu nhiệm của mình, bà Thần bèn rút bấu nước mang theo người ra tưới tắt bếp lửa không muốn cho mình hưởng;nhưng ông cụ cũng cố bươi đống tro tàn ra xem thì may hãy còn một tí than đỏ. Ông lão mừng rỡ vội bỏ vào khố bọc lại mang về nhà nhen nhúm nó lên. Từ ngày đó ngày nào cơm thịt ê hề, gia đình ông lão rất sung túc. Và cũng từ đo, ông lão luôn luôn gìn giữ ngọn lửa không bao giờ dám để tắt. Nhưng một hôm lúc ông đi vắng, người dân của ông vừa đi ra suối múc nước về bỗng thấy lửa bén vào vách mà nhà vắng không có ai cả, bà ta lật đật mang vò nước xối vào khắp cả mọi nơi. Đến chừng ông lão trở về thì tiếc thay lửa đã tắt ngấm không còn một chút than đỏ nào nữa. Từ đó cha con mất hết thứ bảo vật của Thần …. (trích Thần Lửa của NĐC- trang 119-120)
Sách Hoàng Trọng Miên sao lại:
”… Đi đôi với thần gió, thường có thần lửa, mà người ta vẫn gọi là bà Hỏa, một vị thần đàn bà mũi hung ác. Người ta kể lại rằng ngày xưa có một ông lão đi vào rừng sâu, gặp được một bếp lửa của bà Thần Gió lúc đo đi vắng. Ông lão mừng rỡ chặt một ống nứa không, đặt lên bếp lửa; chỉ trong một lát tự nhiên ống nứa đầy cơm chín, có cả thịt cá nữa. Lấy ra ăn một bữa no nê, ông lão ngủ quên luôn bên bếp lửa, chẳng dè bà Thần trở về bắt gặp. Thấy có người biết được ngọn lửa mầu nhiệm, bà Thần bèn lấy nước tưới tắt bếp lửa rồi bỏ đi. Đến khi ông lão tỉnh dậy thấy bếp tắt mất, cố bới đám tro và may còn sot một cục than đỏ. Ông lão vội bọc cục than đỏ mang về nhà nhen nhúm lên thành một bếp lửa. Từ đó, ngày nào ông lão cũng có cơm thịt đầy đủ, ông chăm sóc ngọn lửa luôn luôn không dám để tắt. Nhưng một hôm ông lão đi vắng, bếp lửa ở nhà cháy lan ra phên, bà vợ đi xách nước về thấy thế bèn lấy nước trưới lên, không dè tưới nhiều qúa làm tắt ngấm cả lửa. Từ đó ngọn lửa Thần không còn ở thế gian nữa… “ trích Thần Lửa của HTM, trang 65).(…)
Chúng tôi trích Thần Lửa điển hình cho nhiều truyện khác : Biên giới Văn Lang, Thần Núi, Cuộc tu bổ lại các giống vật… hoặc những đã truyện ghi trong Bảng so sánh đều được HTM sao y bản chính của NĐC. Thật ra , truyện Thần Núi chẳng có gì mới mẻ, có thể vì HTM lười biếng, không chịu dịch Grossin, Kemlin, Bonifacy, Dumontier vv… lại chép sao y bản chính có sẵn. ( riêng những truyện này NĐC không lồng quan niệm mác xít vào ).
Dưới đây mới là điều đáng nói: quan niệm về thần thoại NĐC và quan niệm về thần thoại của HTM .( tự bạch thoát cả duy tâm , duy vật, mà đó là cách viết theo lối được gọi là quan niệm tổng hợp).
3.- QUAN NIỆM VỀ THẦN THOẠI CỦA HAI ÔNG: NGUYỄN ĐỔNG CHI
& HOÀNG TRỌNG MIÊN
Nguyễn Đổng Chi kể:
“.. Đặc điểm của thần thoại là sự phản ánh xã hội chất phác ấu trĩ đời cổ. Vì thế , bàn về thần thoại Hy Lạp kết tinh trong thơ của Hô Me (Homère), Mác ( N.V thêm: Marx) có bảo: nó phản ảnh cái đẹp, phản ảnh thời đại ấu trĩ một đi không trở lại của loài người…
( Lược khảo về thần thoại V.N, trang 12, 13).
Hoàng Trọng Miên chép:
“…Thần thoại nguồn thơ vô danh, tươi trẻ, linh động, sản phẩm vô thức của trí tưởng tượng con người buổi sơ khai là một bằng chứng làm sáng tỏ thời kỳ mịt mùng trong tiền sử, một tài liệu vô cùng qúy giá về nguồn gốc các dân tộc, một sáng tác văn nghệ chứa đựng cái đẹp đầy tính chất nhân loại không bao giờ còn trở lại với loài người…”
( Việt nam văn học toàn thư, trang 56)Đọc qua bảng so sánh qua hai tác phẩm cùng lập luận, quan niệm tương đồng;người đọc đã nhìn thấy ngay sự lúng túng , vậy ai là người viết không có lập luận, quan niệm, và lại đạo văn tùy tiện.
Ông Hoàng Trọng Miên có ghi chú ở mục Sách tham khảo ( trang 21, 39 ,40, 103), đủ cá sách tham khảo của tây, ta- dặc biệt không ghi tên sách Lược khảo về thần thoại Việt nam /Nguyễn Đổng Chi. Tuy vậy, kẻ đạo văn đã rào đón khéo léo, tế nhị- người nào đã đọc sách NĐC cũng khó bắt bẻ:
“…Những chuyện thần thoại Việt nam lần lượt trình bày theo thứ tự dưới đây, hoặc trích ở sách báo đã đăng hoặc chép theo lời kể, chúng tôi không đẽo gọt lại, cốt giữ được nguyên tích chuyện…” ( trang 56 ).
Nếu xét đúng theo ngôn ngữ và lập luận của ông, thiết tương rằng tác phẩm của Grossin không thể khác hơn Cesbron, Landes hoặc Lĩnh nam trích quái/ Vũ Quỳnh. Cũng như, nếu NĐC đã có Lược khảo về thần thoại Việt nam; hẳn là không cần Việt nam văn học toàn thư/ HTM.
Tôi nhấn mạnh để làm nổi bật sự khắc biệt giữa tài liệu người trước mà người sau mượn - ít nhất cũng phải vượt hơn thì mới phân biệt được. Nếu không, chẳng cần sự có mặt người viết sau làm gì?
Quyền được trích dẫn từ người sau mượn người trước là lẽ đương nhiên, tất nhiên đoạn trích phải trong ngoặc kép, ghi rõ xuất sứ. đằng này ông HTM không làm như vậy, trừ Phần thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư… được sao chép, thêm thắt đôi ba ý kiến cốt đánh lạc độc giả không dễ phân biệt nội dung sách này, sách kia. Từ phần năm trở về sau , Hoàng Trọng Miên sao chép y chang sách Nguyễn Đổng Chi.
Trong Lược khảo về thần thọai Việt nam/ Nguyễn Đổng Chi phân tích rõ thế nào nhân thaọi, thần thoại, ảnh hưởng từ Trung hoa đến Việt nam cùng các nước lân cận ra sao? (gạt bỏ lập luận duy vật sử quan được lồng vào nội dung chuyện kể).
Chẳng hạn bàn về thần thoại, dù muốn hay không muốn, chúng ta không thể không biết thần thoại Trung hoa. Nói cách khác : thần thoại Việt nam chịu ảnh hưởng Trung hoa ra sao, lại không thấy Hoàng Trọng Miên đề cập- và người đi trước, ông Nguyễn Đổng Chi đã không hề bỏ sót .
Phần tổng luận, HTM không đưa ra được một kết luận xác đáng nào - phô trương mớ chữ nghĩa trống rỗng , dao to búa lớn , nào là : dân tộc, triết học dân tộc, triết lý luân hồi, triết lý bất diệt, triết lý vạn vật, vũ trụ quan làm nền tảng cho thần thoại dân tộc… không ngoài tự bịp chính ông ta và đọc gỉả. Với tư tưởng duy tâm, người ta xét tác phẩm tác giả ở ngoài khung cảnh lịch sử xã hội ,với tư tưởng duy vật người ta cho rằng sản phẩm trí thức là con đẻ của tương quan sản xuất kinh tế…” ( trang 8)
Tam Ích giới thiệu qua Lời tựa, cho HTM đã dùng phưong pháp tổng hợp ( trang 2) cũng chẳng giải thích phương pháp tổng hợp là phương pháp gì? Một khi sử dụng ngữ nghĩa cách chung chung như thế - thì kẻ viết - là người đọc đầu tiên cũng chẳng hiểu mình viết cái quái gì , huống hồ chi là đọc giả? Giải thích bừa đi, phương pháp tổng hợp là để tìm hiểu toàn diện tác phẩm văn học gồm tâm và vật, nhưng tâm và vật của duy tâm hay duy vật? Ông Tam Ích ơi, giaó điều Marx cũng bàn đến tâm và vật đấy, ông biết không? Rồi ông viết tựa lại tiếp tục biện minh rất tào lao:
“…Nhưng dầu sao chúng ta phải thừa nhận một điều: cái gì do quần chúng bình dân sáng tạo là phong phú, là hồn hậu – sẵn cả sinh tố tinh thần để nuôi dưỡng những linh hồn….”
Hồi kết cục dẫn tới:
a) Thế Phong ( Đường Bá Bổn) nghỉ làm biên tập viên.
b) thay Tổng thư ký Hội kiêm chủ bút Văn hoá Á châu, giáo sư Lê Xuân Khoa.
c)- g iáo sư Lê Thành Trị, tác giả Chủ nghĩa nhân vị - trước đây được Sở Nghiên cứu chính trị xã hội ( giám đốc Trần Kim Tuyến) cấp học bổng sang Âu châu du học vài năm, trở về nước được cử giữ chức chủ bút tạp chí Văn hoá Á châu ( kể từ 1961) và giáo sư Nguyễn Đăng Thục vẫn là chủ nhiệm báo kiêm chủ tịch Hội.
d)- Bộ Thông Tin yêu cầu chủ nhiệm Võ Văn Trưng thay tổng thư ký nguyệt san Sinh Lực (Uyên Thao )- với lý do đã đăng bài bút chiến của Thế Phong trả lời tạp chí Văn hữu ( cơ quan Văn hoá Vụ/Bộ Thông tin gây hoang mang dư luận.
e)- và tác phẩm Việt Nam văn học toàn thư ( tập 1) , do Quôc hoa xuất bản ở Saigon 1960 của soạn giả Hoàng Trọng Miên được trao gỉải nhất loại sách khảo luận. (Giải Văn chương toàn quốc Việt Nam Cộng hoà).
- Từ khi giáo sư Lê Thành Trị nắm chủ bút, ông cho thay đổi nội dung tạp chí Văn hoá Á châu ( bộ mới số 1 ) nặng phần chính trị, xã luận; nhẹ bớt phần văn học, triết học.Tóm lại, bổ sung nhiều bài viết chính trị lên án mác xít , hạn chế bài khảo cứu lịch sử, xã hội, văn học, điểm sách văn chương.
Hội Nghiên cứu liên lạc văn hoá Á châu thành lập nhà xuất bản giới thiệu Việt Nam với Đông nam Á , tác giả Nguyễn Đăng Thục ra mắt song hành sách dịch Việt sử tiêu án . Ít lâu sau, giáo sư Thục được mời dự Hội nghị các triết gia ở Mỹ (Hawaii), với tư cách triết gia dự thính (không được tham luận) , và là triết gia Việt nam khu vực Đông nam Á. Thật ra Việt nam chưa có triết gia, và nếu có rồi , là ai? Lý Đông A có được gọi là triết gia? Nguyễn Đức Quỳnh qua cuốn tiểu thuyết Hỗn Mang (đăng dang dở trên báo) - thì lãnh tụ Lý Đông A, lãnh tụ đảng Duy Dân mới xứng đáng triết gia đúng nghĩa !
Một học giả viết được một số bài nghiên cứu triết đông, triết tây; hẳn chưa thể gọi là triết gia được - vì triết gia phải có học thuyết riêng ( một isme nào đó- thi dụ existentialisme ).
Theo duy danh định nghĩa , giáo sư Nguyễn Đăng Thục chưa đủ tư các được gọi là một triết gia.
Và ,thật ngạc nhiên sau 42 năm , một cuốn sách ra đời ở Pháp ghi đôi ba dòng phương danh triết gia Việt nam : ( miền Nam ) Nguyễn Đăng Thục, Kim Định, Nguyễn Duy Cần, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung… ( xem Dictionnaire des philosophes- PUF xuất bản, Paris 1984).
Bài vở tạp chí Văn hoá Á châu không đa dạng như Đại học Huế , vẫn đúng là diễn đàn mở rộng đăng tải mọi quan niệm, khuynh hướng giới trí thức, văn học nghệ thuật, có kinh nghiệm nghề nghiệp, lập trường vững chắc đương đầu văn hóa mác xít bên kia vỹ tuyến. Tạp chí xuất bản hàng tháng không đều đặn như trước năm 1960 - bài vở tạp nham do ký giả Trịnh Viết Thành ( thư ký toà soạn) bao thầu.
Theo quản lý trị sự ( Trịnh Hoài Đức) , tạp chí bán ra chỉ thu được vài trăm đồng hàng tháng . ( 20 đồng/ tờ - thời kỳ này 35 đồng Việt nam / 1 Mỹ kim). Cơ quan đầu não tài trợ tài chính không mặn mà chi viện, một phần vì bị rút ruột, một phần tờ tạp chí không đạt được mục tiêu phố biến văn hoá Hoa Kỳ- hoặc sự yếu kém từ nhân sự mới (đảng viên đảng Cần Lao Nhân Vị tham nhũng ).
Nhờ hồi Pháp bảo hộ Bắc kỳ, chánh sở mật thám Marty cấp tiền cho Phạm Quỳnh xuất bản tạp chí Nam Phong, thì chủ nhiệm công khai đề tên giám đốc chính trị Marty trên manchette báo/Lê Văn Phúc quản lý toàn quyền lo trị sự- tờNam Phong sống rất thọ tạo được một phong trào văn hoá có giá trị đích thực; người đọc muốn tìm hiểu văn hoá một thời đoạn lịch sử, không thể không tra cứu qua báo Nam Phong. Chẳng cần dài dòng, ai cũng biết Nam Phong có nhiệm vụ phát huy văn hoá Pháp ở Đông Dương, nói riêng. và Bắc Trung, Nam Kỳ nói riêng. Đó là sự kiện được công khai hoá , không úp mở kiểu các hội đoàn,tạp chí nhận viện trợ làm văn hoá giấu diếm, ém nhẹm cơ quan chi viện?
Chẳng ai ngạc nhiên về Pétrus Ký, một trong thông ngôn viên xuất chúng , một học giả uy tín đầu tiên ở nuớc ta cộng tác với Pháp bây giờ vẫn được trọng nể? Tại sao?
Xin thưa, Trương Vĩnh Ký thực hiện đường lối chính trị Pháp - không bán đường lối văn hoá .Chủ nhiệm Nam Phong khác Trương Vĩnh Ký- chỉ học được một chưa biết hai - lẫn lộn văn hoá và chính trị - sau bị phơi thân trước họng súng nghiệt ngã.
Trở lại Phạm Quỳnh công khai hoá danh tính chánh sớ Mật thám , cho biết chính phủ bào hộ bảo trợ và Marty. Đại diện Độc giả thời ấy cầm tờ báo Nam Phong trong tay, biết mình không bị đánh lừa.. Sau này báo Đông Dương tạp chí – ông Nguyễn Văn Vĩnh bắt chước công khai hoá cơ quan nào tài trợ như tờ Nam Phong đã làm. Làm vậy, với bản thân Nguyễn Văn Vĩnh , giúp tự biết kẻ được Pháp giao phó công việc phát huy văn hoá ở nước thuộc địa, và hợp đồng thoả hiệp rô ràng không có gì mờ ám .
Đất nước giành được độc lập rồi – vậy thì quí vị làm văn hoá, văn nghệ được chính phủ trợ cấp, hoặc đồng minh tài trợ trực diện, tại sao không dám công khai hoá như tiền bối? các vị có giấu diếm nguồn tài tr đi nữa , tự coi tiền túi bỏ ra làm văn hoá chẳng hạn - xin thưa chẳng thể loè bịp được ai. Có gì xấu hổ đâu, anh nhận tài trợ phát huy văn hoá của quốc gia đã tài trợ , theo hợp đồng thoả thuận hai bên, anh cứ thực hiện và thực hiện như thế mói là điều cần bàn.
Nước ta trải qua trăm năm Tây thống trị, trước ngàn năm Tàu, cộng hai chục năm ngoài chiến tranh tàn phá, tất nhiên kinh tế không được rồi rào. Vần đề cơm áo, nhu cầu cấp thiết giải quyết, người dân đặt lên hàng đầu . Bụng đói đọc sách, báo không vô đầu óc. Cũng không vin cớ đó , bỏ bê văn hoá, món ăn tinh thần nhu cần không thể thiếu. Nền móng văn hoá là đường lối chính trị, anh chống địch thủ không chỉ cầm súng lao ra mặt trận, hoặc cần nhiều võ khí tối tân coi như nắm phần thắng; mà còn cần phải có học thuyết. Vì thế , chính phủ và cơ quan văn hóa nước bạn (đồng minh chính trị) có bổn phận thuê anh làm công việc phát huy văn hoá- hãy theo gương Nam Phong và Đông Dương tạp chí công khai hoá vấn đề ,chẳng có gì phải mặc cảm ngậm miệng ăn tiền, nói năng, viết lách bừa bãi?
Lại nữa, anh không thể làm văn nghệ cách độc lập, một khi sẵn cơ hội, anh hãy cứ mạnh dạn nhận trợ cấp, không sợ đeo theo mặc cảm tự ty biện bạch thế này thế kia. Có tài bao biện như một bè lũ thức giả Trung hoa kháng Nhật ( thời kỳ Lỗ Tấn) , một tay chìa ra nhận viện trợ , tay kia hô hào chống x âm lăng– thì chẳng ai chịu tin, nhổ bọt vào mặt bọn hai mang ba que sỏ lá! (trường hợp Uông Tinh Vệ thân Nhật chẳng hạn).
Ở bên ta, nhận tài trợ phát huy văn hoá từ thời Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh/ Marty, Tự lực văn đoàn / linh mục Crass-Đỗ Minh Vọng, Hàn Thuyên/ Cousseau… tất nhiên dư kinh nghiệm. Bởi vậy, chỉ cấn ký hợp đông đặt hàng , nhất nhất phải làm xứng đồng tiền chủ bỏ ra, cả hai đều có lợi.. Một khi tránh tiếng, điều này sai từ căn bản, các anh mang mặc cảm tự ty, tự tôn lẫn lộn làm giảm sút vai trò thực hiện , hiệu quả sẽ không đạt như ý. Dầu có làm đi nữa, vẫn tắc trách không thể khác kẻ vung tay đốt nhà táng giấy.
Chủ tịch Hội, giáo sư Nguyễn Đăng Thục có uy tín trong giới khoa bảng, văn học, giáo dục –đứng đầu một hội gồm hàng trăm thức giả tiếng tăm, lý do gì điều hành sa sút, tụt hậu- kể từ khi cải tổ ?
Tạp chí Văn hoá Á châu , cơ quan diễn đàn văn hoá miền Nam bỗng nhiên trở thành báo chính trị lá cải , phát hành bán cho vài chục đọc giả. , Tiền tài, nhân lực Hội Văn hoá Á châu không thiếu, vậy tại sao không làm được một tờ báo như tạp chí Quê hương ( chủ nhiệm: giáo sư Nguyễn Cao Hách) phát hành chục ngàn số / tháng , có hàng ngàn đọc giả.
Tạp chí Văn hoá Á châu , tiếng nói nhân sĩ, trí thức, nhà văn, nhà báo đầu đàn miền Nam - trở thành tờ báo chính trị lá cải lại bán giá trên trời nhằm rút tiền các bộ, ngành mua dài hạn với giá công sở gấp đôi. Còn độc giả thích văn học nghệ thuật chẳng ai buồn đọc, dầu phát không. Tờ báo không biết xếp loại nào, chính trị nửa mùa, văn học tạp phí lù, tổng hợp chính trị văn hoá thì không phải vậy - báo không đọc giả - cuối cùng tự đóng cửa.
Tóm lại, học giả Nguyễn Đăng Thục chói sáng như chiếc đèn kéo quân , bị bọn cơ hội chính trị bắt xoay đủ chiều giữa đêm mưa trung thu thiếu khán giả tham dự cổ vũ, hoan nghênh!...CÒN TIẾP...
http://newvietart.com/index4.463.html
trích GIAO BLOG
========
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét