Tiết 3
ĐIỂN HÌNH TRUYỆN PHONG TỤC THÔN QUÊ, LOÀI VẬT.
TÔ HOÀI
(1920 - )
Tiểu Sử.
Tên thật Nguyễn Sen. Sinh năm 1920. Ban đầu viết cho báo Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan và xuất bản nhiều tác phẩm tiểu thuyết. Là nhà văn chuyên viết loại vật, truyện nhi đồng, loại vật có tính cách giáo dục con người. Ông còn viết loại truyện tả phong tục thôn quê, với giọng văn căm thù hướng về phản kháng. Hiện nay sống ở miền Bắc.
Tác Phẩm và Khuynh Hướng.
Dế mèn phiêu lưu ký (1942), U Tám, v.v… Tác phẩm tiểu thuyết khác như Quê người (1942), hậu chiến NXB Á châu tái bản: Giăng thề, Xóm Ao Sen, Đêm mưa, Cỏ dại, O chuột, Xóm giếng ngày xưa (NXB Chính Ký Hà Nội tái bản 1952). v.v... O chuột, tác phẩm đầu tay của Tô Hoài. Có khuynh hướng xã hội, Ông phơi bày cho người đọc qua giọng văn căm thù, tố cáo xã hội thống trị bóp nghẹt kinh tế. Tác phẩm về loài vật mang lập luận hướng dẫn tự do là cần thiết và góp vào sự phong phú cho văn học. Lối sống của Con gi đá, Chuột bạch được nhân cách hóa; chúng cũng có lối sống như người. Giọng kể truyện nỉ non hấp dẫn của Tô Hoài làm say mê người đọc. Tuy không là lối khảo cứu như La vie des fourmis (Đời sống loài kiến) của ngoại quốc, hay khảo cứu về động vật, côn trùng; nhưng truyện loài vật là tiểu thuyết nhân cách hóa.
Nhận định về hoàn cảnh xã hội và bối cảnh truyện.
Truyện loài vật được nhân cách hóa chính là tả người, đây cũng là một chủ ý nhà văn bị ẩn ức, thiếu tự do được biểu hiện sự thực của đời loài vật. Với tiêu chuẩn này khi nhận định phân tích tác phẩm của ông:
- Dựa vào hoàn cảnh xã hội, dưới mắt nhà văn Tô Hoài.
- Ảnh hưởng từ cuộc sống xã hội đến cuộc đời tác giả và tác phẩm.
- Kết luận của tác giả ra sao đối với xã hội?
Giữa xã hội bị thống trị, nhà văn, nói chung, Tô Hoài, nói riêng; không mỗi lúc đưa ra lối thoát: NGHÈO, ĐÓI, NHỤC = CÁCH MỆNH. Đã biết rằng chỉ cách mệnh mới giải quyết được hoàn cảnh gò bó, thối tha, phản nhân bản, Nhưng muốn thế, như Lỗ Tấn nói cần phải có giọng văn căm thù; thì nhà văn mới có bước đi trước để tác động đồng chủng. Tình trạng nhà văn trong nước, nhất định phải chịu luật kiểm duyệt sách in của Chính phủ bảo hộ. Như vậy, không hoàn cảnh nào cho phép nhà văn sáng tác tác phẩm chống đối quá lộ liễu. Như trước đây, chúng tôi nhớ rằng trong cuốn Văn nghệ và Phê Bình(74), Tam Ích cho Khái Hưng không nói được cái gì, vì tiểu tư sản nào có điển hình cho cái gì cho xã hội đâu? Nam, ông giáo Chương, Tuyết... và ông kết luận sao Khái Hưng lại không như Maxime Gorki viết La Mère (Người Mẹ)? Khi xét một tác giả, đánh giá trị chung; nên còn qua mắt nhận định Tam Ích không vượt được nhìn sâu và không nhìn thẳng vào tư tưởng giai tầng sống tác giả và hoàn cảnh chính trị xã hội mà nhà văn đó sống. Người Mẹ của Maxime Gorki viết ở Capri năm 1907; khi ông sang trị nạn chính trị ở Ý, vì không chịu được hoàn cảnh thống trị lúc bấy giờ của Nga Hoàng. Nếu Maxime Gorki ở Nga dưới chế độ Nga Hoàng, hẳn rằng không thế nào Người Mẹ có thể xuất bản được. Nên một tác phẩm chia thành hai phần chính yếu và gồm nhiều mục, thì:
Trình bày hoàn cảnh, sự kiện.
Giải quyết sự kiện nêu ra.
Đưa ra bằng hình tượng mà không cần giải quyết?
Không cần giải quyết mà người đọc có thể có kết luận…
Và giọng văn hướng dẫn, gây căm thù tiến tới đả phá chế độ mà nhà văn giải quyết trong tác phẩm ẩn thể.
Thì văn chương trong nước bị hạn chế tự do, chỉ dám giải quyết sự việc bằng hai phương pháp như dưới thôi. Tác giả tả cảnh nghèo không lấy được nhau, nguyên nhân tại sao? Nếu cho nhân vật không phải thiếu thủy chung, đưa ra hoàn cảnh sống eo hẹp, vậy tác giả định nói gì? Tố cáo hệ thống kinh tế suy sụp, đời sống eo hẹp. Đúng; cho nên Nguyễn Đình Lạp đã giải quyết sự kiện kết cấu giữa Nhớn và Khuyên bỏ đi, Nhớn nhờ Sẹo đến mả mới, đào lấy hai chiếc nhẫn cạnh xác chết, để có tiền rủ nhau chung hưởng hạnh phúc. Tác giả nói lên sự nghèo khổ, sự mất thăng bằng thứ bậc gia đình; sự cải tổ mới lớp người không chịu nổi luân lý cổ truyền. Và tất nhiên người đọc suy nghĩ miên man đi đến kết cấu nào đưa đến thế, nếu không là chế độ chính trị…?
Người đọc sẽ hiểu biết, thức giấc quyền lợi, nghĩa là dẫn họ biết quyền lợi được quyền đòi hỏi. Họ chưa dám có ý nghĩa hành động, nhưng nếu thế hệ mới có người cách mệnh tài ba chỉ huy, hướng dẫn, họ sẽ ngả theo chống lại chế độ. Chúng tôi không đồng ý rằng có truyện không đưa ra kết luận là hại làm độc giả hoang mang. Sự gọi là phản bội độc giả, một số người yếu đuối để hoàn cảnh lôi kéo, song thiết tưởng cuộc cách mệnh hoàn thành tránh sao được đổ máu? Thiết thực là phá ít xây dựng nhiều. Còn nếu phê phán một tác giả như Tam Ích nhận định trên kia, quả là tác giả sống một thứ bậc, sản phẩm tinh thần trong thứ bậc, rồi kẻ phê bình nếu không điên cũng mất trí óc để nhìn theo con mắt, lập trường mình trong một thứ bậc khác đả kích. Lối này là của Mác xít thường dùng.
Nhà văn và nhà cách mệnh, hai hình bóng song hành với nhau. Có khi nhà văn cho nhà cách mệnh rõ hoàn cảnh xã hội qua tác phẩm (Tạ Thu Thâu và Vũ Trọng Phụng). Có khi nhà cách mệnh phải cần nhà văn thức giấc quần chúng bằng văn chương cách mệnh qua giọng căm hờn (Lénine và Maxime Gorki) với tác phẩm Người Mẹ và cuộc lật đổ Nga Hoàng. Và người gia nhập đảng chỉ vì đọc Người Mẹ không cần hỏi cương lĩnh. Văn hóa nói chung, văn nghệ nói riêng, tác động chính yếu cho chế độ chính trị cũng như chủ nghĩa cách mệnh.
Phân Tích Tác Phẩm Chính.
Quê hương một truyện dài của Tô Hoài, tác giả trình bầy sinh hoạt thôn quê, nghèo đói không đủ sống, nên đã có người vào nước Sề Goòng kiếm ăn. Đã có mối tình tan vỡ vì nghèo đói. Tất cả những cảnh khổ não chuẩn bị về cơm gạo trong luận đề, là tìm sống ở đất khách quê người.
Giăng Thề một tác phẩm thuộc loại điển hình văn nghiệp Tô Hoài, cũng như truyện loài vật: O Chuột, Con gi đá, (Truyện loài vật nhà xuất bản Chính Ký tái bản ở Hà Nội vào 1950...), Xóm giếng, Ngày xưa, Chuột thành phố...
Giăng Thề cuốn tiểu thuyết tả nếp sống tiểu trí thức thôn quê, một thư lại gọi là thầy ở thôn quê hẻo lánh; và sự kiện tranh đấu cho miếng cơm manh áo, tình yêu, vô cùng chật vật. Hẳn chúng ta còn nhớ Vũ Trọng Phụng cho thấy thực trạng bóp nghẹt của chế độ chính trị trong Giông Tố, muốn mở trường dạy học, sáu đứa trẻ trở lên, phải xin phép. Nói làm gì đến lớp bần dân khổ biết chừng nào, khi tiểu trí thức và trí thức kẻ giác ngộ quyền lợi mình và quyền lợi đồng chủng còn bị áp chế.
Câu nhân vật chính, cậu giáo viên làng Hạ Nha. Sinh hoạt phí giáo viên do trường làng cấp phát, từ quỹ tự trị hương thôn. Nhu cầu vật chất giáo viên lên xuống theo sinh hoạt dân làng; đói, no, thiếu thốn, đầy đủ. Nhưng Câu nghèo quá, ngoài việc dạy học, Câu muốn kiếm thêm tiền bằng cách nuôi gà. Tô Hoài đưa người đọc cảm thông sinh hoạt ấy qua:
“… Đàn gà của nhà giáo còn nhiều nữa. Chả thầy Câu có một đàn gà ấp, hai mụ mái đang đẻ, ba chị mái tơ và bốn chú gà trống lớn. Đổ đồng mỗi tháng cũng được ngót hai chục trứng(75) . Trước kia, hễ đến phiên chợ cuối tháng, Câu lại nhờ thằng Vật đem trứng lên chợ bán hộ. Được hai xu thuê nó sướng rơn. Bây giờ ngày phiên cô Miến qua, đem bán trứng giúp chàng. Nhà giáo thấy có một cái gì thú vị trong cử chỉ ấy. Riêng thằng Vật ra lối tức tối hằn học. Muốn đẹp lòng nó, thỉnh thoảng Câu vẫn cho tiền như thường lệ!...” Tô Hoài nhận xét tỷ mỷ, chuyển đoạn sang tình yêu khéo léo. Từ quyền lợi thằng Vật được hưởng từ bán trứng chuyển sang Miến vào đề một chuyện tình, cho người đọc nhận thấy được dàn xếp trơn tru, tiến thoái. Đến đây, Tô Hoài tả một xen tình ái rất ý nhị giữa Câu và Miến. Độc giả từng được đọc nhiều đoạn tả về hẹn hò tình ái tỉnh thành, bây giờ mở thêm phần hình tượng đợi chờ tình yêu thôn xóm:
“…Câu hy vọng Miến đi chợ muộn. Nhưng bây giờ hơn, chẳng thấy bóng cô ả. Anh cho là hôm nay Miến không đi. Nhưng cái sự cho là không đủ che lấp nổi ngại ngần trong lòng Câu. Cho đến xẩm tối, anh vẫn ra đi, lại đi vào, ngong ngóng ngẩn ngơ…. Làm sao Miến không đến. Hẳn có sự gì, cái câu chuyện hát hỏng phẩy gió kia bay đến tai nàng? Nàng tức Câu. Nàng giận Câu rồi. Con gái là hay hờn dỗi lắm. Câu lo. Câu lo quá. Vả lại, ngày ngày nóng ruột nữa. Bữa cơm chiều ấy, anh ta chỉ ăn được có ba vực bát cơm…” Tô Hoài có giọng văn đặc biệt, tả tình nỉ non, dí dỏm. Tác giả gây đột ngột, khiến người đọc đánh dấu hỏi chuyển đoạn dự đoán. Tác giả lại dẫn người đọc vào truyện, tại sao lại có sự giận hờn giữa Câu và Miến? Miến giận hờn có phải chỉ là thái độ ghen bóng gió thường tình con gái, thì được Tô Hoài giải thích thật đáng yêu:
“… Rồi Miến quay ra ngay. Câu cuống quít:
- Này?
- Hừ...
- Tôi hỏi cái mà…
- …
- Mấy hôm nay sao Miến không đến?
- Tôi bận.
- Miến dỗi tôi đấy hả?
Miến cười chua chát: - Ai công đâu mà dỗi cậu. Cậu muốn đi chơi thì đi chứ. Tôi có dám biết đâu?
Cậu nhăn nhó:
- Người ta cứ đồn suýt ra. Chứ thực tôi….
- Tôi oan hẳn. Tôi còn biết nhiều chuyện lạ nữa kia?
- Chuyện gì?
- Chuyện gì thì cậu biết đấy.
Câu bùi ngùi:
- Miến ạ từ giờ tôi chừa! Thực tôi chừa đến ngày xuống lỗ.
Dáng hẳn cái nét mặt của nhà giáo lúc bấy giờ coi thiểu não ngẩn ngơ quá khiến Miến phải bật cười. Cơn hờn đã tan. Mà đâu có chi, cũng chỉ dỗi ít thôi. Nhưng không tỏ vẻ gì khác cô nói:
- Rổ bèo tôi để ngoài ngõ. Tối rồi tôi về đây…”
Sự giẫn dỗi cô gái quê làm cậu giáo quê phải thề thốt, nhúng nha nhúng nhẳng đến là hay! Tô Hoài tả lại thành thật, biểu hiện tâm lý Miến và Câu thật tài tình. Tô Hoài như người vô hình trung gian làm nhân chứng tình duyên. Hậu họa chưa qua được đêm, Câu quên lời hứa lại gặp nhà cô đầu. Câu vô tình trả lời như có mấy nàng cô đầu ghé qua trường Hạ Nha. Thì Tô Hoài lại có dịp kể chuyện tiếp: “…Cho đến lúc tan học, anh vẫn chưa tan cơn ngơ ngác. Anh sợ lịm người đi được. Có hai người cô đầu đến tận trường học ỏn ẻn hỏi chuyện anh. Tất cả sáu mươi chín đứa học trò nhìn thấy như nhau. Chúng đã đương rì rầm khảo rằng thầy giáo ta quen hai cô tân thời. Nhất là những đứa học trò gái lại càng ríu rít bàn mảnh tợn. Chúng nhìn trộm thầy rồi nhe răng sún cười với nhau. Câu chắp tay sau lưng đi đi lại lại, nghĩ bối rối nguồn cơn. Mỗi đứa học trò có một cái miệng để nói truyện bô bô…. Chốc nữa năm xóm làng Nha, ai cũng nghe rõ ràng như thế. Anh sẽ nổi tiếng là tay chơi. Thằng Cử, thằng Chân hai đứa cháu cô Miến cũng học ở đây…” Tô Hoài nhận xét tài tình từng thái độ tâm lý chuyển biến. Hình ảnh, tưởng tượng dồi dào, lối kể chuyện tế nhị lại có duyên. Người đọc nhận ngay thấy cách lập mưu của tác giả đưa ra chưa dứt, giận hờn này sẽ mang đến bao đổ vỡ khác. Bây giờ tác giả bỏ lửng câu chuyện ấy, làm người đọc có độ lắng nhớ nhung. Để chuyển sang trạng thái khác. Hoàn cảnh nhà giáo đồng nghiệp, nghèo, bạc đãi, bị khinh rẻ; yếu tố bọn sinh ra chữ và phổ biến chữ làm sao tránh nổi dưới một chế độ, dù là chế độ nào vẫn miệt thị chiến sĩ bất vụ lợi hy sinh có thừa ấy; nhìn về tương lai huy hoàng hiện tại thân mình bệ rạc! Tô Hoài còn nói điển hình nghèo, nào riêng Câu mà toàn diện thứ bậc cùng hoàn cảnh:
“…Nhà ông giáo Hoạnh có ba gian. Một gian bên kia có cửa đi vào. Đây là buồng vợ ông giáo, nằm với đứa con nhỏ. Trong ấy còn để đồ đạc quý báu gì nữa thì không biết, vì lúc nào cũng tối om om. Bước vào mùi đất mốc xông lên lạnh rợn người. Gian giữa một cái phản mà chồng vừa làm chỗ ngủ của thằng Biên, cái Giá hoặc chính của nhà giáo…. Có mấy ông đồ rau gạch vỡ ngồi ngơ ngác trong mấy đống gio tàn. Vài chiếc nồi treo rải rác ở mấy hốc cột. Dưới mặt đất ẩm, vô khối cụ cóc ngồi châu hẩu thỉnh thoảng lại tép lưỡi bắt ruồi. Có một điều lạ. Nhà này vốn là nhà ông giáo Hoạnh. Phải. Vậy mà đố ai bới đâu cho thấy được một cuốn sách hoặc một lọ mực…”
Đó là Tô Hoài châm biếm sâu độc chế độ chính trị thực dân Pháp đẻ ra sản phẩm như ông giáo Hoạnh. Ông đánh dấu hỏi nhà này ông giáo Hoạnh. - Phải, chính hình tượng này đã vạch rõ nghèo đói đến bi thương khốn nạn cùng cực cuộc đời nhà giáo; thiếu tiền mua sách, bởi không đủ tiền mua gạo. Hình ảnh bi thương chán chường khắc khoải, nữa, mấy chú cóc cụ ngồi châu hẩu tép lưỡi đớp ruồi. Cảnh tiều tụy ấy, Tô Hoài chỉ tả tượng trung, ẩn thể lên án xã hội; đến như vậy là cao độ nghệ thuật bút pháp nhà văn.
Giáo Hoạnh đã nghèo rồi lại mất việc dạy học, phải dọn nhà đi nơi khác. Một buổi, Câu sang thăm về giữa đường gặp người yêu. Tâm trạng Câu bị xâu xé dày vò. Cuộc gặp gỡ Miến ở hoàn cảnh thuận tiện, ngàn năm một thuở, làm sao Câu dám bạo dạn để khơi lời tạ lỗi? Nếu lần này không tỏ lộ để qua đi, rồi thì Câu sẽ mất mối tình vĩnh viễn. Tất cả lo âu ấy được Tô Hoài diễn lại:
“…Bởi anh vừa cười để tự nhạo mình. Vợ con. Có bao giờ Câu dám nghĩ đến chuyện vợ con! Nhất là từ khi ái tình của chàng và Miến phai lạt. Lạt phai vì những duyên cớ mỏng manh không đâu? Bây giờ thì...
Đằng trước không có ai. Bây giờ Câu mới đi qua hết làng Thượng. Chỉ thấy cái mẩu đầu cầu Phượng trăng trắng bắc ngang qua dòng sông Lịch. Câu quay lại.
Có một bóng người đi đằng sau. Dáng cao cao, tha thướt của người đàn bà. Hình như sợ tối và vắng vẻ, người ấy đi rất nhanh sắp kịp Câu. Đến lúc nghe phía sau lạt sạt tiếng bước đụng của đôi quần ống, Câu quay lại. Và Câu trố cả hai mắt ra. Người đàn bà ấy là cô Miến…
- Cô Miến.
Miến nhìn quay lại. Rồi Miến ve vẩy đi ngay. Nhưng câu hỏi thứ nhất đã ra khỏi miệng. Vả lại cứ gọi. Cứ nói đã sao? Dù Miến có giận cũng chẳng chết cơ mà?
- Lại tôi hỏi nhờ cái này tí, cô Miến?
- ……
- Tôi hỏi…
Miến đứng và Miến quay lại. Ôi chao! nào Câu biết hỏi gì lúc này bây giờ. Vừa rồi nhà giáo đã chỉ có gọi liều một câu lăng nhăng đấy chứ? Nhưng may quá, Miến lại nói trước, nói rằng:
- Bác lại còn hỏi tôi làm gì nữa?
Câu ngẩn ngơ:
- Ô hay Miến giận tôi thật đấy à?
- Nào tôi có dám giận bác đâu?
- Sao Miến lại gọi tôi như thế? Tôi có làm gì để cho Miến giận đâu?Mấy tháng giời nay tôi vẫn mong Miến đến chơi để tôi… Thực anh ta mới nói được mấy câu khéo quá. Hình như Miến đã bớt giận ngay. Miến đứng yên hai tay vân vê lăn tròn cây mía. Khiến câu chú ý đến. Câu hỏi:
- Miến mua mía ở đâu thế?
- Trên chợ.
- Miến đi chợ tối thế hử?
- Không, đi qua chợ thì mua.
- Miến đi đâu về thế?
- ………………………………….
- Miến?
- ……….
- Tôi xin lỗi Miến.
Miến nức nở khóc thành tiếng. Nước mắt chan hòa xuống hai bên má. Nàng lấy giải yếm che mặt, rồi khe khẽ nói:
- Mấy tháng giời nay tôi nghĩ ngợi đau đớn về cậu. Ai lại chơi bời thế bao giờ? Cậu có yêu tôi đâu?
- Miến đừng nói thế oan tôi. Thực quả tôi…
Câu khẽ cầm tay Miến, Miến ngoái đi. Nhưng ngoái khẽ cho là có việc – mà bàn tay mình vẫn nằm trong bàn tay bạn – Và miệng nàng mỉm cười…”
Mối tình tuy chưa thành tựu, Câu vẫn chưa bao giờ dám nghĩ đến. Chung qui vì nghèo, nghèo bị bóc lột do chế độ chính trị áp bức và bị tước thặng dư giá trị. Câu nhìn cảnh vợ con bạn như Hoạnh, tự làm khổ mình, lại mang cả hình hài nghèo khổ của vợ con tròng vào cổ. Tô Hoài cho nhân vật Câu sống bằng lý tưởng, mơ mộng. Đoạn văn dưới đây tả cậu giáo được cô Miến tặng cho một bọc giấy gói nho nhỏ. Chao ôi! Nói sao hết nỗi lòng Câu yêu cô Miến lúc ấy, qua ngọn bút tài hoa không ai có thể viết giống như Tô Hoài:
“...Giáo Câu mở cái bọc giấy. Một sợi chỉ se bằng mấy dặm tơ vàng buộc chéo ngang bốn góc. Tờ giấy mở ra. Nhà giáo thấy một cái khăn mùi soa rất đẹp, rất quý và một lọ nước hoa bọc giữa chiếc khăn. Xung quanh bốn bề viền xun xoăn những sợi chỉ bóng nhoáng và hồng hồng. Mấy chiếc lá xanh tươi, một chiếc nụ, một cái hoa đỏ rực rỡ. Đưa lên mũi, thoảng trong khăn có mùi hoa thơm thơm. Còn lọ nước hoa, lọ nước hoa nhỏ xinh bằng gai ngón tay chụm một. Màu nước vàng, ngoài lọ dán mảnh giấy bạc. Cầm trong mấy vật báu của người yêu gửi tặng, Câu sung sướng bâng khuâng, đờ đẫn cả người, đầu óc rối beng, không biết nghĩ ngợi thế nào. May anh ta mới nghĩ được một câu rất dễ dàng rằng:
- À nước hoa, khăn mặt của Miến sú-vơ-nia đấy.
Đêm ấy, tám giờ tối, giáo Câu đã mắc màn đi nằm. Anh mang cả chiếc khăn mặt và lọ nước hoa vào màn. Cái khăn mùi soa phủ kín lên mặt. Anh nằm say sưa lơ mơ. Cứ thế, vui ngủ quên lúc nào không biết…”
Dòng viết kỷ niệm Tô Hoài tả trên đây gây cho người đọc niềm vui lâng lâng bề ngoài, nhưng đau đớn ngấm ngầm. Chỉ vì nghèo, nuôi mộng nghèo, hình ảnh đáng thương kiếp người nghèo phản ánh trong văn chương. Phải có giọng văn căm thù mới kích thích chống Pháp được! Tô Hoài còn dẫn người đọc bị kích thích lòng căm phẫn ấy, ở giai đoạn cuối:
“…Câu nhìn xuống. Từ nãy, Câu vẫn thấy Miến thu thủ cái gói gì trong bọc áo. Ra cô Miến thu thủ cái gói kẹo dừa kẹo lạc. Nàng lấy trộm một ít cho người yêu sơi chút quà Hà Nội…”
Miến ra Hà Nội và đi làm. Câu đi Hà Nội thăm. Tô Hoài cần kết thúc chuyện tình gái quê dẹp đợi chờ cậu giáo nghèo vì không bao giờ cưới nổi vợ. Hà nội dẫn dụ người thôn quê đến đây sẽ bị vứt vào trong hai hoàn cảnh. Một là tâm hồn biến thể theo đòi lối sống đô thị. Hai là nhìn rõ sa đọa thị thành, tim óc vẫn dắn như đồng. Ở đây Tô Hoài áp dụng trường hợp một, vì đối với Miến mới gây nổi sự căm thù ấy:
“…Năm nay cô ả sắp lấy chồng cậu giáo ạ!
Câu nhỏm dậy:
- Lấy ai hở bác?
- À lại cái món khách ấy. Em chú Sủi…”
Tô Hoài không cần cho người đọc biết kết luận nữa; bởi “cùng tất biến, biết tất thông, thông tất đạt…”
Với cảnh trạng Câu, thì:
“...Buồn hơn nữa, bụng nhà giáo đã hơi đoi đói. Trong túi còn độ bốn hào. Song không kiếm thấy hàng phở. Đêm đã về khuya. Hai vai áo the của Câu ẩm ướt và lạnh ngắt. Không nghỉ, anh cứ đi bạt mạng ra ngoài thành phố. Từ giờ đến sáng mai bao giờ về đến Hạ Nha thì về. Một mình một bóng đi thui thủi. Trên đầu có ông giăng đi theo…”
Nghèo khổ, thất tình, không phải người tình phụ bạc, chỉ vì hoàn cảnh, thế lực đồng tiền làm tan nát mộng lập gia đình. Tô Hoài còn gây căm thù tột đỉnh. Và Câu nhớ đến thư người bạn cũ cùng dạy với Câu, cậu mong bạn tìm việc. Nhưng đợi chờ chỉ vẫn bặt vô âm tín….
Sống dưới chế độ mất tự do, tình yêu, cả hy vọng, sự sống là thừa; chỉ còn đưa đến làm cách mạng. Và tháng tám 1945 đó là Ngày Lớn.
Kết Luận.
Tô Hoài viết truyện ngắn đặc sắc hơn truyện dài, tuy nhiên so văn nghiệp tài năng tác giả, cả hai như đều sở trường. Hầu hết tác phẩm ngắn dài đều nói đến đời sống dân của dân tộc nô lệ. Tô Hoài viết tiểu thuyết giáo dục, mở mang chí phiêu lưu tìm kiếm chân trời, như trong Dế mèn phiêu lưu ký. Vũ Ngọc Phan nhận định về Tô Hoài:
“...Tập O chuột là một truyện ngắn đầu tiên của Tô Hoài và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho lối văn đặc biệt của ông, một lối văn dí dỏm, tinh quái, đầy những vị, màu sắc của thôn quê. Cái tình và cái lẽ phải thực ở lẽ gặp nhau ở chỗ này. Truyện loài vật của Tô Hoài thấp hơn loài người. Trong loài người cũng có hạng gần như loài vật…”
Vũ Ngọc Phan nói đến thế là hết, lẽ ông dám bạo dạn tố cáo người sống thấp hơn vật khi đọc truyện Tô Hoài. Làm sao ông dám phê bình, phân tích tác phẩm, so sánh hoàn cảnh chính trị xã hội thời ấy. Nên đành câm nín mà chỉ dám vào đầu bằng câu như vừa trích trên.
Dưới chế độ bóp chẹt tự do sự cấu tạo tác phẩm chỉ là sự phản bội của phản bội sự thực biểu hiện ngoài đời sống. Sự ngăn cản nghệ sĩ sáng tạo, tất nhiên sẽ có muôn ngàn biểu hiện khác chống đối. Tô Hoài, nhà văn cao trọng có chiếc chiếu riêng như: Nguyễn Tuân, Khái Hưng, Nguyễn Đức Quỳnh. Nguyễn Đình Lạp, Trương Tửu, Nguyễn Công Hoan, Thụy-An Hoàng Dân, Vũ Trọng Phụng... – và không một ai thay thế được ông !(76)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét