Thứ Ba, 14 tháng 7, 2020

về tác giả MINH ĐỨC HOÀI TRINH [ i.e. Võ Thị Hoài Trinh 1930- 2017 Hoa Kỳ] -- source: Blog Phan Nguyên














Minh Đức Hoài Trinh



Tên thật: Võ Thị Hoài Trinh
(Có tài liệu ghi Võ Tá Hoài Trinh)

Các bút hiệu khác:

Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử

(15/10/1930 Huế - 9/6/2017 Huntington valley)

Nhà văn, Nhà thơ, Nhà báo



sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964. Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982.










Tiểu sử

Minh Đức Hoài Trinh sinh năm 1930 tại Huế, con quan Tổng Đốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Bà là em ruột nhà văn nữ Linh Bảo và là cô của nhạc sĩ Võ Tá Hân.
Theo Nhạc sĩ Phạm Duy, bà đã tham gia phong trào kháng chiến chống Pháp khoảng năm 48, nhưng sau đó bỏ về Huế tiếp tục việc học.
Năm 1964 bà du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương, Paris 
 Ra trường năm 1967, bà làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, là một phóng viên chiến trường tầm cỡ quốc tế, một ký giả hoạt động ở mọi lĩnh vực, bà đã làm nhiều phóng sự ở nhiều nơi sôi động như Algérie, Việt Nam v.v
Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
1973 Bà được cử sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến giữa Palestine và Do Thái
Sau đó bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh (Sài gòn) năm 1974-1975.

Sau biến cố 1975 bà trở lại Pháp cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhân hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979.

Ngoài những bài báo, bà còn sáng tác khoảng 25 tác phẩm văn học.

Nhà văn Nguyễn Huy Quang, chồng bà, đã thực hiện một tập sách khá đầy đủ những tài liệu, bài vở và hình ảnh với tiêu đề: “Văn Nghiệp Và Cuộc Đời Minh Đức Hoài Trinh.”


















Minh Đức Hoài Trinh thời du học tại Pháp












Tác phẩm đã xuất bản






1
Lang Thang
(1960)




2
Thư Sinh
(1962)




3
Bơ Vơ
(1964)




4
Hắn
(1964)




5
(1964)




6
Thiên Nga
(1965)




7
Hai Gốc Cây
(1966)




8
Sám Hối
(1967)




9
Tử Địa
(1973)




10
Trà Thất
(1974)



11
Bài Thơ Cho Ai
(1974)




12
Dòng Mưa Trích Lịch
(Thanh Long Bruxelles, 1976)




13
Bài Thơ Cho Quê Hương
(Nguyễn Quang Paris 1976)




14
This Side The Other Side
(Occidental Press USA 1980)




15
Bên Ni Bên Tê
(truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985)




16
Niệm Thư 1
(tái bản 1987)




17
Biển Nghiệp
(Nguyễn Quang USA, 1990)






Danh sách chưa đày đủ








Đọc truyện Minh Đức Hoài Trinh
























Thơ Minh Đức Hoài Trinh




















Đừng Bỏ Em Một Mình



Đừng bỏ em một mình

Khi trăng về lạnh lẽo

Khi chuông chùa u minh

Chậm rãi tiếng cầu kinh

Đừng bỏ em một mình
Khi mưa chiều rào rạt
Lũ chim buồn xơ xác
Tìm nhau gục vào mình

Đừng bỏ em một mình
Trời đất đang làm kinh
Rừng xa quằn quại gió
Thu buốt vết hồ tinh

Đừng bỏ em một mình
Đừng bắt em làm thinh
Cho em gào nức nở
Hòa đại dương mông mênh

Đừng bỏ em một mình
Biển đêm vời vợi quá
Bước chân đời nghiêng ngả
Vũ trụ vàng thênh thênh

Đừng bỏ em một mình
Môi vệ thần không linh
Tiếng thời gian rền rĩ
Đường nghĩa trang gập ghềnh 

Đừng bỏ em một mình
Bắt em nghe tiếng búa
Tiếng búa nện vào đinh
Hòa trong tiếng u minh

Đừng bỏ em một mình
Bóng thuyền ma lênh đênh
Vòng hoa tang héo úa
Yêu quái vẫn vô tình

Đừng bỏ em một mình
Cho côn trùng rúc rỉa
Cỏ dại phủ mộ trinh
Cho bão tố bấp bênh

Đừng bỏ em một mình
Mấy ngàn năm sau nữa
Ai mái tóc còn xinh
Đừng bỏ em một mình




Nhạc Phạm Duy
Thơ Minh Đức Hoài Trinh


















Bài Thơ Không Tên

Ta đi trên đường phố rộng
Mà ngỡ lạc vào tha ma
Cuộc đời xây toàn ảo mộng
Trong lũ người hôm nay sao lại có ta

Tiếng ai vọng về nức nở
Hay từ chính nẻo tâm tư
Nơi quê hương có người đang ngộp thở
Mồ Đại Dương thay cánh cửa ngục tù

Này những oan hồn lạnh lẽo
Thôi đừng oán hận hôm nay
Thoát khỏi cuộc đời úa héo
Thoát làm Việt Nam là thoát cảnh đọa đày

Các anh đói trên đất nhà quằn quại
Chúng tôi no ngoài xứ lạ nhục nhằn
Đồng hương đó mà nhìn nhau ái ngại
Như hai kẻ thù, như thú dữ với người săn

Có phương thuốc nào kỳ diệu
Uống vào để biết yêu thương
Mẹ hiền ru con, xin hoài một điệu
.. . Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Nếu biết ngày mai u tối
Lửa đạn bao trùm năm châu
Xóa ván cờ này ta bày cuộc mới
Danh vọng, giàu sang, rồi sẽ được bao lâu?

Im đi. Thôi đừng nức nở
Tâm tư ơi chán chường rồi
Lầu hạnh phúc chưa tìm ra lối mở
Vườn Thiên Thai chốn bỉ ngạn mà thôi














Gửi Mẹ

Mùa thu ấy mưa về trong gió rét
Mẹ ngậm ngùi âu yếm tiễn con ra
Mắt ngời xanh mơ ước chốn ngàn xa,
Trời khóc hộ mẹ con ta, mẹ nhỉ.

Nhưng đời không dung dị,
Như mùi hương giàn hoa lý thanh thanh,
Từ xa nhà con chưa gặp mầu xanh,
Chưa được thở khí lành,
Như con hằng mơ tưởng.

Và mẹ nữa, có thấy gì sung sướng,
Những buổi chiều mưa gió vướng trên hoa,
Tìm đâu hình ảnh thiết tha
Mẹ còn đứng tựa bóng già thân cau.

Không, con chẳng muốn mẹ sầu,
Núi sông ai nỡ nhuộm màu nhớ thương,
Mái quê hương,
Chìm trong sương trắng lạnh
Cánh chim trời cô quạnh bơ vơ,
Mẹ ơi, biết đến bao giờ,
Gió đưa thuyền ngược lại bờ sông xưa?

Mái nhà ai còn rả rich tiếng đàn mưa . . .











Hỏi Mẹ

Mẹ ở phương nào chiều hôm nay
Hoàng hôn đang về trong heo may
Mây trắng hững hờ ôm đỉnh núi
Mẹ thấy không, mình con ở đây

Mẹ ở phương nào chiều hôm qua
Trăng thương nhòa nhạt giải Ngân Hà
Mùa thu lá đỏ như mầu lửa
Ai có nghe tình ai thiết tha

Mẹ ở phương nào buổi sớm mai
Quê mình, Quê Phật? Cõi thiên thai?
Cung trời Đao Lợi xa vời quá
Mẹ đã vào chưa ? Hay tương lai ? 

Mẹ ở nơi nầy hay ở đâu?
Cuộc đời vùn vụt trôi qua mau
Một kiếp, hai kiếp, thật là ngắn
Mới cười, mới khóc, mới bên nhau

Mẹ biết con thường hay xót xa
Khi hoàng hôn tím phủ bao la
Đất mình, quê mẹ chừ tan nát
Hẹn đến bao giờ . . Ta gặp Ta?

Có dịp nào mẹ lên vấn Trời
Quê mình sao khổ thế Trời ơi
Trời đùa? Trời thử? Hay Trời ác?
Đày đọa dân ta đến mấy đời?

















Kiếp Nào Có Yêu Nhau

Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi 
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi .

Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ .

Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở .

Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận ngàn sau
Tình xanh khong lo sợ .

Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi ?




Phạm Duy phổ nhạc
Tuấn Ngọc



Thái Thanh

















Mẹ Bảo Ta Đừng Nhìn Qua Cửa Sổ

Mẹ bảo ta đừng nhìn qua cửa sổ
Khi hoàng hôn đang chầm chậm bước chân
Đừng ngước mắt theo lũ chim về tổ
Khi trăng tàn nhẹ trải lối quanh sân

Mẹ dặn ta đừng nhìn qua cửa sổ
Khi niềm tin lỗi hẹn vắng đi về
Khi đã trót giao bôi không đúng chỗ
Mà cuộc đời là một cõi u mê

Mẹ khuyên ta đừng nhìn qua cửa sổ
Sau những đêm quằn quại ngủ không mơ
Ngoài gió siết run từng cơn lá đổ
Hãy xuống hàng, chấm dứt một bài thơ

Mẹ cấm ta không cho nhìn qua cửa sổ
Không cho nghe âm đoản, giọng trầm buồn
Khi đã biết rừng đời nhiều trái khổ
Tô đậm làm chi bóng lẻ dưới trăng suông

Mẹ xin ta đừng nhìn qua cửa sổ
Nghĩa lý gì đâu, những hình ảnh vô thường
Một kiếp người chưa bằng viên đá nhỏ
Hãy gạt sang bên hờn giận với yêu thương

Nhưng ta vẫn lén nhìn qua cửa sổ
Thả tâm tư về cuối nẻo chân trời
Tìm trong ánh sáng một vì sao bé nhỏ
Nói với sao:
Trần gian này còn một kẻ đơn côi 




























Lời ca của đất

Em đây mà
Anh, anh ơi sao không quay đầu lại
Sao không nhìn nhau
Không gượng nhẹ bàn tay
Em của anh
Bao nhiêu lần sợ hãi
Từng đợt mìn bom
Từng hố trẻ vùi thây

Hãy nhìn em đi anh
Xin nhau cái nhìn đằm thắm
Xin nhau nụ cười thiết tha
Quê hương mình
Đường Bắc Nam thăm thẳm
Từng đoàn quân chen chúc tới tha ma.

Đêm mờ hơi sương
Đi đâu anh, đi đâu
Xin đừng đi nữa
Đỗ lại hôm nay, cởi súng buông gươm
Tội nghiệp em
Ba mươi năm khói lửa
Mải hận thù quên nói chuyện yêu đương.

Em sợ lắm
Mùi hôi tanh của màu đen, máu chết
Từ mình anh rịn thấm xuống thân em
Trời ôi, này
Sao xác anh bê bết
Lấy đất bùn thay nệm ấm chăn êm

Hình hài em bé nhỏ
Sẹo hằn lên thịt da
Ruột gan ai nỡ xé
Gỗ đá nào không nức nở thương ta.

Trích tạp chí Hồn Việt Nam, số 5, ngày 15/2/76























Yêu Nhau Kiếp Nào



Năm 1943, Phạm Duy theo gánh hát Đức Huy tới Huế vào một ngày êm đẹp. Cảm xúc ngày ấy như vẫn ngọt lịm trên từng giác quan người nhạc sĩ. Ông mơ màng hồi tưởng: “Ai tới Huế lần đầu tiên cũng đều cảm thấy như vừa gặp một nơi để biết ái tình ở dòng sông Hương... vì những bầy “Huế nữ” không những đẹp thôi, ăn nói lại mặn mà có duyên. Tôi may mắn được quen biết mấy chị em trong một gia đình quyền quý và được mời tới dinh thự Hương Trang ở Nam Giao chơi... Trong số đó có một cô gái rất trẻ tên là Võ Tá Hoài Trinh. Cô này còn làm thơ nữa, lấy bút danh Minh Đức Hoài Trinh... Nói rằng tôi biết ái tình ở dòng sông Hương là thế, nhưng lúc quen nhau rồi thì cũng phải xa nhau. Tôi tiếp tục sống đời giang hồ, người mới quen dần trôi vào dĩ vãng...”.





Nhạc sĩ Phạm Duy, năm 2007
Ảnh: Diệp Đức Minh 


Cuộc đời Phạm Duy, không ít những cuộc gặp đầy lưu luyến, song phần lớn chỉ là đôi ba khoảnh khắc ngắn ngủi rồi muôn trùng cách biệt. Trường hợp của nữ sĩ Hoài Trinh có thể gói trọn trong một chữ “duyên”. Năm 1948, nơi không gian nhỏ hẹp là khu vực của làng văn nghệ Quần Tín (tỉnh Thanh Hóa) vào thời gian mà cuộc toàn quốc kháng chiến đã gần đi vào năm thứ hai. Phạm Duy kể: “Tôi bấy giờ đang là quân nhân... bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con... ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ Trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thai Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ”.
Con tạo xoay vần. Họ lại chia tay nhau. Nhưng, Phạm Duy tiếp tục câu chuyện về nữ sĩ Hoài Trinh: “Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”.

Minh Đức Hoài Trinh, trong ký ức của Phạm Duy là một người phụ nữ có tính cách mạnh mẽ pha chút “bạt mạng”. Thói đời thích ban cho người đàn bà đẹp cuộc sống trắc trở. Có lẽ vì thế mà đằng sau mỗi nhan sắc yêu kiều thường là tâm hồn cứng cỏi vượt lên mọi nghịch cảnh. Cuộc giao duyên thơ - nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy và nữ sĩ Hoài Trinh đã kịp cho ra đời hai bản tình: Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình.

“Nhạc tình của tôi trong loại nhạc tình cảm tính, nhạc của lứa đôi, nên tôi rất chú trọng tới chữ “nhau”: Cho nhau, Đừng xa nhau... Một bài thơ cũng ở trong chữ ''nhau'' của Hoài Trinh đã nói lên mối tình xanh vẫn còn lo sợ... Bài thơ nhan đề Kiếp nào có yêu nhau...

Anh đừng nhìn em nữa
Hoa xanh đã phai rồi
Còn nhìn em chi nữa
Xót lòng nhau mà thôi

....

Cả bài thơ là một sự nức nở, nghẹn ngào, tiếc nuối... để có thể làm cho người đọc thấy trong lòng buốt giá, tái tê, chết lặng.

Chắc bạn đọc cũng thấy bài thơ phổ nhạc được tôi thêm câu, thêm chữ. Phổ nhạc là chấp cánh cho thơ bay cao. Bài thơ ngắn ngủi, cô đọng này, vì có thêm chữ nên không còn tiết vần đều đều, bằng phẳng nữa. Bây giờ nó quay cuồng theo nét nhạc, câu nhạc. Giai điệu của câu “đừng nhìn em nữa anh ơi” chuyển rất đột ngột, đi từ nốt trầm lên nốt cao nhất với hai “nhẩy bực” quãng 5 để diễn tả sự tột độ của tình cảm. Cái syncope sau câu “đừng nhìn em” làm cho mọi người thấy được sự nghẹn ngào của bài thơ và bài hát...

Nói thêm cho rõ: ca khúc gồm 154 chữ, dài gấp rưỡi bản gốc. Bản gốc là thơ năm chữ theo luật thi, nhịp lẻ; ca từ nhịp chẵn 6-10 theo sườn lục bát vần lưng kết hợp với vần chân; hai câu ngũ ngôn trở thành bát cú (hémistiche) cho câu 10 từ với vần giữa câu. Như vậy, chỉ về âm luật thôi, bài hát đã khác bài thơ. Những câu, những từ, những âm (đừng... đã) luyến láy tạo ý nghĩa mới cho lời thơ - chưa kể nhạc thuật phong phú, tha thiết mang chất bi kịch.

Hẳn người thôi đã quên ta!
Trăng thu gẫy đôi bờ, chim bay xứ xa mờ.
Gặp người chăng? Gặp người chăng, nhắn cho ta
Hoa xanh đã bơ vơ, đêm sâu gối ơ thờ.

Về bài thơ Đừng bỏ em một mình. Sau khi đã thu xếp gọn gàng cuộc tình mười năm với những tình ca đôi lứa như Ngày đó chúng mình, Đừng xa nhau, Con đường tình ta đi... rồi chia tay với người yêu qua những tình ca một mình như Mùa thu chết, Tình hờ, Giết người trong mộng... tại Midway City, vào năm 1970, tôi phổ nhạc một bài thơ như gửi từ dưới mộ:

Đừng bỏ em một mình
Khi trăng về lạnh lẽo
Khi chuông chùa u minh
Chậm rãi tiếng cầu kinh

...

Đừng bỏ em một mình
Mấy ngàn năm sau nữa
Ai mái tóc còn xinh
Đừng bỏ em một mình

Tôi còn gặp lại Minh Đức Hoài Trinh thêm một lần nữa khi chúng tôi di cư qua Mỹ, tới ngụ cư tại Midway City. Nàng cũng tới thị trấn giữa đàng và ở nhà xế cửa nhà tôi”.

(Trích Vang vọng một thời - Mùa hè 2012) 

Hiếu Dũng - Ngân Vi





















Thơ Minh Đức Hoài Trinh
Nhạc: Võ Tá Hân
Giọng hát: Bảo yến
https://www.youtube.com/watch?v=7Y_6w5nWqrQ&list=PLEe32_RuY7pzupTAT_UqHu_hV5SLl_i_u






















HÀNH TRÌNH CỦA MỘT NỮ SĨ
CAO MỴ NHÂN

LTS-Minh Đức Hoài Trinh tên thật Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày 5 tháng 10 năm 1930 tại Huế, là con cụ Võ Chuẩn, Tổng đốc tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ đi học ở các tỉnh theo cha, lớn theo học ngành báo chí, chính trị và xã hội học tại Pháp. Đã từng làm ký giả và đặc phái viên cho nhiều báo, có chân trong Nghiệp đoàn Ký giả Việt Nam và Hội ký giả Ngoại quốc tại Pháp. (NT)

Trên cõi đời, có lẽ số người tôn trọng nguyên tắc chỉ độ non nửa, già nửa nhân khẩu còn lại, thường ỷ y, xem thường, hoặc vô phương...cứu chữa cái cố tật “nước tới chân mới nhảy”. Tôi là số người đứng ở phần hai này.

Trong câu chuyện 60 năm cuộc đời hôm nay, mà tuần tới đây (1), nhà văn NGUYỄN QUANG, tác giả tập truyện ÔNG GIÁO LÀNG đã ra mắt bạn đọc ở Nam California cách nay mấy tháng, sẽ là người chủ chốt giới thiệu với độc giả về 60 năm cuộc đời của nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH, mà ông anh, nhà văn NGUYỄN QUANG đã thông báo cho tôi, lớp sau của nữ sĩ phu nhân ông, rằng ông sẽ cố gắng làm một buổi sinh hoạt văn chương kỷ niệm “60 năm MINH ĐỨC HOÀI TRINH trên ngay phần đất Bolsa, thủ đô tị nạn của những người Việt đang và vẫn còn lưu vong này, cho dù thời gian trước đây, ông chưa nghĩ tới, hoặc giả vân vân khác...và tôi cố gắng góp chút kỷ niệm cho có tình tỉ muội với nhau.

Tôi bày tỏ với anh chị nhà văn NGUYỄN QUANG và nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH, là tôi ngại quá, ở một cái nôi hơn ba thập niên văn vật, với con đường xa lộ hào quang 24 / 24, âm vang từ năm châu vọng về điểm tới Bolsa đỉnh chung danh vọng, đất hứa của những tài hoa mọi lãnh vực, đến nỗi từ trong nước hết lớp sóng này, tới lớp sóng khác, tràn qua đại dương, lưu diễn ngành nghề đơn điệu hay đa hiệu tùy theo thời vận.

Nhà văn NGUYỄN QUANG cười hỉ hả:

-Không sao, không sao, việc ai nấy làm, mình ghi lại thời điểm 60 năm hoạt động văn học nghệ thuật của MINH ĐỨC HOÀI TRINH thôi mà.
-Dạ.

Vào thượng tuần tháng 4.2008, tôi đã tháp tùng đôi uyên ương văn nghệ này, lên San Jose để giới thiệu cuốn sách đồ sộ Văn Nghiệp và Cuộc Đời MINH ĐỨC HOÀI TRINH, gồm những hình ảnh và bài vở liên hệ với nữ tác giả đương nêu, do chính nhà văn NGUYỄN QUANG sưu tầm, biên soạn.

Với lý do gần cũng như xa, trong cũng như ngoài, nhà văn NGUYỄN QUANG nhận định, nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH đã rất nhiệt thành từ thực tế tới văn chương, thành ông muốn thu thập lại.

MINH ĐỨC HOÀI TRINH là một nhà văn, nhà thơ, nhà báo thực sự, nhưng nếu chỉ là...ba nhà như thế thì cũng na ná các nhà văn, thơ, báo hiện nay, rất đại trà ở hải ngoại, cái điều khiến người ta, hay ít nhất là tôi thấy được, chị đã khởi đi từ một ký giả truyền thông chuyên nghiệp, có học hành, đỗ đạt ở một phân khoa đại học danh tiếng nước Pháp.

Chị đã là phóng viên chiến trường cấp quốc tế, đã là ký giả hoạt động ở mọi lãnh vực, chị đã hiện diện ở Châu Âu, Châu Phi, và sau cùng ở Châu Á, trong đó có chiến trường Việt Nam trước 30.4.1975. Sau đó chị lại rời quê hương, trước thời điểm trên, lại vẫn vừa học, vừa hành...khi hay tin miền Nam rơi vào tay cộng sản, MINH ĐỨC HOÀI TRINH đành trở qua Pháp, bước tiếp hành trình cuộc đời chị, sinh hoạt văn hóa, xã hội và đấu tranh cho lý tưởng Tự Do mà từ thuở nào chị hằng theo đuổi.

Kể từ giữa thập niên 70, nhất là những năm cuối 70 này, những cơn sốt di tản xuất phát từ các ngả Đông, Nam Việt Nam, dân chúng bất kể thuộc thành phần nào ở các tỉnh bên này sông Bến Hải, đã phải tìm đường vượt biên vì sợ hãi, chán ghét, thù hận chế độ vô thần, vô sản, vô nhân đạo, họ quyết kiếm sự sống trên nỗi chết, hằng ngày sóng biển Đông vật vã tàu đò, thân xác người lênh đênh.

Để nói lên tiếng nói chung, một cách điệu duy nhất có thể biểu lộ được, phản bác được cho năm châu thế giới mau chóng biết được, hiểu ngay, vì sao dân miền Nam phải rời bỏ quê hương ra đi, là, phải có một sinh hoạt cấp quốc tế, nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH đã nung nấu ý chí thành lập VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI, với hoài bão dựa vào diễn đàn này, nói lên nguyện vọng của từng lớp người di tản, vượt biển, lưu vong, tị nạn. Do đó, năm 1977, MINH ĐỨC HOÀI TRINH đã từng vận động, từng bước xây dựng được trung tâm VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI, chính thức sinh hoạt cùng VĂN BÚT THẾ GIỚI năm 1978. Nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH là chủ tịch VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI nhiệm kỳ tiên phong. Thành bên cạnh Văn Nghiệp, MINH ĐỨC HOÀI TRINHvới 30 tác phẩm đủ thể loại, từ thơ, văn, tiểu luận, ký mục v.v...nữ sĩ có một sự nghiệp song song, đó là người đã hiện diện trong lãnh vực VĂN BÚT VIỆT NAM, kể từ khi mới khai mạc buổi đầu tiên thập niên 60 ở thế kỷ trước, do các nhà văn, nhà thơ tiền nhiệm, lão làng thiết lập, trách nhiệm tổ chức điều hành như nhà văn NHẤT LINH NGUYỄN TƯỜNG TAM, nhà văn ĐỖ ĐỨC THU, các nhà thơ VŨ HOÀNG CHƯƠNG, ĐÔNG HỒ, trẻ hơn như các nhà văn DUY LAM, NGUYỄN THỊ VINH, LINH BẢO v.v...trong số đó có các nữ sĩ sinh hoạt rất đều đặn, đi họp VĂN BÚT THẾ GIỚI từ những năm trước 1975, như MỘNG TUYẾT, QUỲNH HƯƠNG, TÔN NỮ HỶ KHƯƠNG, HOÀNG HƯƠNG TRANG và nhất là văn, thi sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH.

Nhiệm kỳ VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI do nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH giữ chức chủ tịch, đã đấu tranh tích cực cho những văn nghệ sĩ thuở đó đang bị chính quyền cộng sản Việt Nam cầm tù, như nhà văn DUY LAM, nhà thơ CUNG TRẦM TƯỞNG, nhà thơ TÔ THÙY YÊN, tất nhiên ba văn, thi sĩ đó đã được các trung tâm Văn Bút nước bạn như Pháp, Thụy Sĩ nêu ra thành tích và tên tuổi từ trước Tháng Tư Đen 1975 ở Miền Nam Việt Nam.

Điểm khó trình bày với tôi hiện nay, là giai đoạn hai của VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI sau năm 1995 đã bị phân hóa, khiến VĂN BÚT THẾ GIỚI phải đặt VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI trong tình trạng dừng lại, thì một lần nữa, nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH lại phải dấn thân đi vận động VĂN BÚT THẾ GIỚI nghiên cứu và chấp thuận việc tái sinh hoạt, để danh xưng VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI tồn tại đến hiện thời. Nếu không vì yêu mến, xót thương danh nghĩa VĂN BÚT VIỆT NAM xưa gọi là BÚT VIỆT, nay là VĂN BÚT VIỆT NAM HẢI NGOẠI, thì nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH đã chẳng bận tâm, tuổi tác và sức khỏe không cho phép nữ sĩ làm việc, suy nghĩ nhiều nữa. 60 năm văn chương, nghệ thuật của MINH ĐỨC HOÀI TRINH thiết tưởng đã quá tải với những ưu tư, viết lách, hội thoại v.v...Nhưng, bù lại nữ sĩ có những sinh hoạt văn nghệ tươi mát, hồn nhiên khác như hướng dẫn và biểu diễn đàn tranh, cắm hoa.

Ngày anh chị cư ngụ ở Vườn Trúc (trước nhà, chị trồng toàn trúc vàng), chị còn hướng dẫn một lớp chữ Hán. Tôi hỏi tại sao thời chị du học ở Pháp, chị lại học chữ Hán? Chị bảo học chữ Hán để không quên tiếng Việt, và tất nhiên để thưởng thức văn chương Đường, Tống.

Riêng tôi, đứng trước nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH, một người trọng nguyên tắc, tôi vẫn tìm thấy được những nét thoải mái, khi nghe hai bài thơ của chị được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc: ”Kiếp nào có yêu nhau”, và “Đừng bỏ em một mình”. Nhiều bài thơ khác của MINH ĐỨC HOÀI TRINH cũng được các nhạc sĩ khác phổ nhạc, song tôi đan cử hai bài trên, vì hai bài đó đã “thời đại hóa” một thời Miền Nam trước 1975.

Sự nghiệp văn hóa, xã hội vậy, mà nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH không hay chưa viết Hồi ký như một số văn, thi sĩ ở hải ngoại đã từng tự sự kể đời mình. Có lẽ yếu tố thực tế đôi lúc khiến chị không tha thiết lắm, bởi khi tác giả hồi ký cầm bút, thì sẽ bắt đầu kể từ đoạn nào đời nào, từ thuở tấm bé, con nhà quan, lúc tham gia sinh hoạt yêu nước như thế hệ trước năm 1954 của chị, hay khi bắt đầu rời xa quê mẹ, đến nửa địa cầu phía Tây, rồi trở về đất nước, xong lại tha hương tới bây giờ...Thật nhiều quá, có nguyên tắc đến đâu thì cũng trễ muộn, như tôi nói mở đầu, phàm việc gì, nước đến chân mới nhảy cũng dễ bị thiếu sót. Do đó, nữ sĩ MINH ĐỨC HOÀI TRINH đã không viết hồi ký, nhưng chị lại may mắn, là có phu quân - người bạn đời hào phóng, mã thượng là nhà văn NGUYỄN QUANG - đã tổng hợp giùm chị đường trường Văn Nghiệp, với 253 bức hình, thuyết minh cuộc hành trình trong cuốn sách, dày như cuốn album khổ XL đồ sộ “Văn Nghiệp và Cuộc Đời MINH ĐỨC HOÀI TRINH đã xuất bản, nay lại tổ chức một buổi “60 năm MINH ĐỨC HOÀI TRINH ngày chủ nhật 6.11.2009, vô cùng tình nghĩa.

Hawthorne 28.11.2009

1)-Tuần báo văn nghệ Đất Đứng của Hội Văn Nghệ Sĩ Việt Mỹ, số 383, ngày Thứ Sáu 11.12.2009, mục Trong xóm Ngoài làng, tr. 30. 

                                                                     (...)

source:Blog Phan Nguyên



                                         --------------------------------------------------

                                                              tưởng nh


                                phóng viên,  giáo sư thỉnh giảng,  văn nhân, thi sĩ

                                            MINH ĐỨC HOÀI TRINH
                                   [ i.e. Võ Thị Hoài Trinh 1930 - 2017 / Hoa Kỳ]








                                                        blog Virgil Gheorghiu
                                                        Saigon, July 15, 2020

                                    ----------------------------------------------------------
ưởng nhớ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét