Thứ Năm, 18 tháng 6, 2020

về nhà văn, đạo diễn sân khấu, biên kịch ... NGUYỄN THỊ MINH NGỌC [ 1953 Bà Rịa -- ] -- nguồn: vi.wikipedia.org

Nguyễn Thị Minh Ngọc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướngBước tới tìm kiếm
Nguyễn Thị Minh Ngọc
Thông tin cá nhân
Sinh5 tháng 8, 1953 (66 tuổi)
Bà Rịa
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệpnhà văn- đạo diễn sân khấu- biên kịch- giảng viên
Sự nghiệp điện ảnh
Tác phẩmSống Trong Sợ Hãi.
Ngọc Viễn Đông Hương Ga
Song Lang
Sự nghiệp văn học
Bút danhNgọc Minh (trước 1975) - Nguyễn Thị Minh Ngọc (sau 1975)
Giai đoạn sáng tác1965 - hiện tại
Thể loạitruyện ngắn- tiểu thuyết-kịch bản sân khấu
Tác phẩmNăm đêm với bé Su
Giải thưởng
Văn học Thiếu Nhi 1996
Giải A
Cánh diều vàng 2007
Biên kịch xuất sắc phim truyện điện ảnh

Website
http://phannguyenartist.blogspot.com/2012/04/nguyen-thi-minh-ngoc.html
https://damau.org/author/nguyenthiminhngoc
Nguyễn Thị Minh Ngọc trên IMDb
Nguyễn Thị Minh Ngọc (sinh ngày 5 tháng 8 năm 1953, tại Bà Rịa, Việt Nam), là nhà văn, nhà biên kịch, đạo diễn, diễn viên Việt Nam.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Thị Minh Ngọc tốt nghiệp đạo diễn sân khấu năm 1980, đào tạo diễn viên tại trường Sân khấu & Ðiện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà hát Trần Hữu Trang, dạy Biên Kịch, Lý Luận Kịch và Lịch sử Sân khấu Việt Nam tại một số trường Cao Ðẳng và Ðại Học, đồng sáng lập CLB Ðạo Diễn Thể Nghiệm (1985), dựng khoảng 30 vở truyền thống và đương đại, viết khoảng 70 vở truyền thống và đương đại cho sân khấu và khoảng 30 kịch bản cho điện ảnh, hàng trăm tập phim cho truyền hình, vài công trình nghiên cứu về sân khấu và cải lương, đã dự nhiều liên hoan, hội thảo, sáng tác và nghiên cứu về sân khấu và giáo dục trong nước cùng các nước Uc, Anh, Pháp, Ðức, Tanzania, Na Uy, Thụy Ðiển, Philipines, Mỹ, Indonesia, là nhân vật sân khấu của năm 2004 do Truyền hình Việt Nam bình chọn.
Là hội viên của các Hội Nhà văn, Sân khấu, Điện ảnh.
Là một trong 20 nhà văn tiêu biểu của Thành phố Hồ Chí Minh do Hội Nhà Văn TP HCM bình chọn. Là nhân vật sân khấu năm 2004 do Truyền hình Việt Nam bình chọn. Được Liên hoan Film Quốc tế về Người Việt (VIFF) tại Mỹ chọn làm tâm điểm (2007).
Là phụ nữ Việt đầu tiên đưa tác phẩm Việt Nam vào sân khấu off-off Broadway tại New York với cương vị tác giả, đạo diễn và diễn viên trong đó với: Người đàn bà thất lạc (2008) và Chúng Tôi Là..(2011).
Là học trò của đạo diễn Nguyễn Tường Trân (đệ tử đời thứ hai của Konstantin Stanislavski) , đã được cùng đào tạo diễn viên cải lương với NSND Phùng Há, đã đào tạo được nhiều nghệ sĩ sân khấu kịch nói và cải lương thành danh ở trong nước và hải ngoại như : NSƯT Hữu Châu, Hữu Nghĩa, Hồng Đào, Quang Minh, NSƯT Hữu Quốc,NSƯT Mỹ Hằng, Lương Mỹ, Mai Lan, Hòa Hiệp, Xuân Trang, Thanh Phương (mất)...
từng là diễn viên cho các sân khấu: 5B Võ Văn Tần, Idecaf... Những vai được khán giả nhớ: Otilia, Cô Bé Nuôi Gà & Cô Gái Già (Dư Luận Quần Chúng), dì ba Duyên (Ngôi Nhà Không Có Đàn Ông), bà Nội (Cậu Đồng), bà Cả & bà Tớ Già (Lồng Đèn Đỏ Treo Cao), bà Mẹ (Tám Người Đàn Bà), Khán Giả Cuồng Nhiệt (Thương hoài ngàn năm), bà Hạnh Ngộ (Một nửa của tôi đâu?) Vai gần nhất là bà Vú trong MV Tan Vỡ với Đàm Vĩnh Hưng và Nhan Phúc Vinh[1]. Riêng tiết mục "Người Lãng Mạn Cuối Cùng- The Last Romantic" là độc diễn 60' ghép từ mười độc thoại bi hài đã được Nguyễn Thị Minh Ngọc dùng để minh họa các buổi nói chuyện về sân khấu của mình ở các đại học trong và ngoài nước.
Ngoài các phim tài liệu về Nguyễn Thị Minh Ngọc do các đài truyền hình của VTV, HTV, Bình Dương, Long An thực hiện, năm 2015, đạo diễn Hùng Phương làm phim tài liệu "Nguyễn Thị Minh Ngọc-Người Gìn Vàng Giữ Ngọc" dài 19'36'' và đã đoạt giải nhất trong cuộc thi "Tôi gìn giữ vẻ đẹp"

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

NămTác phẩmThể loại
1992,1994Ngọn Nến Bên Kia GươngTruyện ngắn
1994,1995Một Mình Bước TớiTruyện ngắn
1995Trinh TiênTruyện Vừa
1995-1996,2000,2003Năm đêm với bé SuTruyện Vừa
1996Người mẫu, Cạn duyênTruyện ngắn
1998Vì sao Con Ra ĐờiTruyện Vừa
1999Dẫu Lìa Ngó ÝTruyện ngắn
2002Ðồng sàngTruyện ngắn
2004Chờ DuyênTruyện ngắn
2006Ký sự người đàn bà bị chồng bỏTiểu thuyết
2007Một trăm câu hỏi đáp về sân khấu cải lương Nam Bộ- Sài Gòn

Giải thưởng Văn Học[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kính thưa anh Tổng Thư Ky- Giải truyện ngắn của Thành Ðoàn, báo Tuổi trẻ (1981).
  • Quán trọ - Giải truyện ngắn của báo Kiến Thức Ngày Nay & Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh (1993).
  • Nắng chiều - Giải truyện ngắn của báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (1986).
  • Chung vách - Giải truyện ngắn của báo Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (1988).
  • Trinh Tiên - Giải Văn học tuổi 20 (Truyện vừa) Nhà Xuất Bản Trẻ & Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh (1995).
  • Năm đêm với bé Su - Giải A Văn học Thiếu Nhi của Nhà Xuất bản Kim Ðồng và Hội Nhà Văn Việt Nam (1996).

Giải thưởng Kịch bản Sân khấu và Phim[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ðứng giữa đồi cao - Giải kịch bản toàn quốc (1985).
  • Những người cha của bé Kham San - Huy chương vàng Toàn quân (1984).
  • Câu chuyện mười năm - Huy chương bạc Sân khấu Quần chúng Thành phố Hồ Chí Minh (1985).
  • Những đứa trẻ lạc loài- Giải Kịch bản Thiếu Nhi (1987).
  • Mardona của tôi - Giải Kịch bản Thiếu Nhi (1987).
  • Những đường dây không thấy được + Ở một nơi chưa có điện về: Giải năm Quốc tế Thông tin Liên lạc (1994).
  • Một nửa của tôi đâu? Giải kịch bản Hội SK Thành phố Hồ Chí Minh & Ðài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (1993)
  • Cô đào hát: (từ truyện của Nguyễn Quang Sáng) Huy chương vàng Liên hoan Sân khấu Sàigòn 300 năm Nhà hát Trần Hữu Trang (1998), giải B Hội Sân khấu Việt Nam(1998).
  • Xóm nhỏ Sàigòn: (chung với Vương Huyền Cơ) Huy chương vàng Liên hoan Sân khấu Sàigòn 300 năm Sân khấu Idecaf (1998), giải B Hội Sân khấu Việt Nam (1998).
  • Thương hoài ngàn năm: Giải B Hội Sân khấu Việt Nam (1996).
  • Lũ rừng: Giải thưởng Hội Sân khấu Việt Nam (2000).
  • Người đàn bà thất lạc: Giải đặc biệt Liên hoan Sân khấu châu Á Thái Bình Dương về Phụ Nữ tại Philipines (2003).
  • Giưã hai bờ sương khói: Giải tác giả Hội diễn SK Chuyên nghiệp Năm Năm (2004).
  • Hãy yêu nhau đi: Giải thưởng Hội Sân khấu Việt Nam (2005). Giải Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (2005).
  • Trái tim nhảy múa: Giải thưởng Liên hoan SK Xã hội hoá Toàn Quốc (2006)
  • Kịch bản phim truyện:Yêu một người Sàigòn: Giải thưởng sáng tác về Sàigòn 300 năm(1998).
  • Hải Nguyệt: Giải A Hội Ðiện Ảnh Việt Nam (1998), giải của Ban Giám khảo Liên hoan Film Việt Nam lần 12 (1999), Liên hoan Phim Ba Lục Ðịa tại Pháp(1998).
  • Thương hoài ngàn năm: Huy chương bạc Liên hoan Truyền hình Toàn quốc (1996).
  • Sống trong sợ hãi: (chung với Bùi Thạc Chuyện) Giải ban giám khảo Liên hoan phim Việt Nam(2006), Giải Ðặc Biệt Liên hoan Phim Thượng Hải, Liên hoan Phim châu Á Thái Bình Dương.
  • Ngọc Viễn Đông: Giải Âm nhạc và Hình Ảnh Liên hoan Phim Độc Lập California,US (2012), Giải Đạo diễn Trẻ xuất sắc phim truyện Liên hoan Phim Illinois,US (2012), Giải đặc biệt ban giám khảo cho quay phim Liên hoan Phim châu Á tại Dallas, US, <ref>(2012).[2]|tựa đề=|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=|url lưu trữ=|ngày lưu trữ=|url hỏng=|ngày truy cập=}}</ref>
  • Nhạc kịch Tiên Nga: (đồng tác giả với NSND Nguyễn Thành Châu & Nguyễn Hồng Dung, cảm tác từ truyện thơ của cụ Đồ Chiểu- đạo diễn Thành Lộc)Giải thưởng Văn học nghệ thuật TP Hồ Chí Minh 5 năm lần 2 (2014-2019)[3]
  • Song Lang: (đồng tác giả với Leon Le) đến tháng Sáu -2020 đã có trên 50 giải trong và ngoài Việt Nam. Giải Trống Đồng và đồng giải Khán Giả Bình Chọn ở Viet Film Fest 2019 (California)[4]

Giải thưởng Kịch bản Phim Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ma túy SOS: Giải Báo chí Thành phố Hồ Chí Minh (1991).
  • Thành Tôn - Người nghệ sĩ: Giải B Liên hoan Film Việt Nam lần 11 (1995).
  • Thời gian & Vĩnh cửu: Giải A Hội Ðiện Ảnh Việt Nam (1996).

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét