Thứ Tư, 4 tháng 7, 2018

bài liên quan: ' nhạc sĩ Phạm Đình Chương [1929- 1991]: " người phổ thơ mang tính thiên tài"/ bài viết: Nguyễn Việt -- nguồn: https://cafevannghe.wordpress.com/

Nhạc sĩ Phạm Đình Chương: " phổ thơ mang tính thiên tài"


 Nguyễn Việt

Nói đến nhạc sĩ Phạm Đình Chương là nói đến những nhạc phẩm tình ca lãng mạn được sáng tác từ thời tiền chiến cho đến bây giờ. Đa số nhạc phẩm do ông sáng tác được phổ từ thơ.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương là một tên tuổi lớn của nền âm nhạc Việt Nam. Nếu phải so sánh giữa Phạm Đình Chương với Phạm Duy, có lẽ cả hai đều  “kẻ tám lạng người nửa cân”, chỉ có điều Phạm Đình Chương không sáng tác nhạc đủ thể loại và theo kiểu “thị trường” như “Sức Mấy Mà Buồn”, “Bỏ Qua Đi Tám” hay nhạc Việt hóa v.v… mà Phạm Duy có sở trường. Phạm Đình Chương chỉ có một con đường để đi, là chọn con đường vì văn học nghệ thuật.
Chúng ta thử điểm qua những sáng tác tiêu biểu của Phạm Đình Chương từ trước đến nay :
– Hội trùng dương, Ly rượu mừng, Tiếng dân chài, Anh đi chiến dịch, Bên trời phiêu lãng, Đất lành, Đêm cuối cùng, Đến trường, Định mệnh buồn, Đón xuân, Ra đi khi trời vừa sáng (viết với Phạm Duy), Đợi chờ (viết với Nhật Bằng), Được mùa, Hò leo núi, Khi cuộc tình đã chết, Khúc giao duyên, Kiếp Cuội già, Lá thư mùa xuân, Lá thư người chiến sĩ, Mỗi độ xuân về, Mười thương, Nhớ bạn tri âm, Sáng rừng, Ta ở trời tây, Thằng Cuội, Thuở ban đầu, Trăng mường Luông, Trăng rừng, Xóm đêm, Xuân tha hương…
Nhạc phổ thơ có những ca khúc như : Buồn đêm mưa (thơ Huy Cận), Cho một thành phố mất tên (thơ Hoàng Ngọc Ẩn), Nửa hồn thương đau, Bài ngợi ca tình yêu, Dạ tâm khúc , Đêm màu hồng (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn, Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, Quê hương là người đó (thơ Du Tử Lê), Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Hạt bụi nào bay qua (thơ Thái Tú Hạp), Heo may tình cũ (thơ Cao Tiêu), Mắt buồn (thơ Lưu Trọng Lư, tặng Lệ Thu), Màu kỷ niệm (thơ Nguyên Sa), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ)… và còn rất nhiều nhạc phẩm khác v.v…

Một chút tiểu sử :
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh năm 1929 và qua đời vào năm 1991. Khi soạn nhạc ông ký bút hiệu Phạm Đình Chương, còn đi hát, chỉ trong ban hợp ca Thăng Long, ông có tên gọi ca sĩ Hoài Bắc.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương sinh 14/11/1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ở Hà Nội còn quê ngoại ở Sơn Tây. Ông xuất thân trong một gia đình mang truyền thống âm nhạc, thân phụ là Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của cha ông, sinh được 2 người con trai tên Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm tức ca sĩ Hoài Trung, trong ban hợp ca Thăng Long như đã nói. Người vợ sau tức mẹ ruột Phạm Đình Chương sinh 3 người gồm trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương, và cô con gái út là Phạm Thị Băng Thanh, tức nữ ca sĩ Thái Thanh.
Từ nhỏ Phạm Đình Chương được nhiều người chỉ dẫn về nhạc lý, nhưng phần lớn ông vẫn tự học là chính. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương tức ca sĩ Hoài Bắc cùng các anh chị em ruột hai dòng như Hoài Trung, Thái Hằng, Thái Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV, để từ đó thành tên Ban hợp ca Thăng Long.
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác âm nhạc vào năm 1947, lúc mới 18 tuổi, nhưng phần nhiều nhạc phẩm của ông thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Các nhạc phẩm đầu tiên như Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng, Hò Leo Núi… có không khí hùng tráng tươi trẻ.
Năm 1954, nhạc sĩ Phạm Đình Chương cùng gia đình chuyển vào miền Nam sinh sống, rồi tái lập lại Ban hợp ca Thăng Long để hoạt động. Thời kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình như các nhạc phẩm : Khúc giao duyên, Thằng Cuội, Được mùa, Tiếng dân chài… Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi hơn : Xóm đêm, Đợi chờ, Ly rượu mừng, Đón xuân…
Sau khi cuộc hôn nhân với nữ ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào những bài nhạc tình da diết, đau nhức, buốt giá : Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau…
Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)… ông cũng đóng góp cho nền tân nhạc Việt với một bản trường ca bất hủ mang tựa “Hội trùng dương” viết về ba con sông nước Việt là sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Sau 1975 nhạc sĩ Phạm Đình Chương định cư tại California, Hoa Kỳ, và mất vào ngày 22/8/1991.

“NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU”


VỚI TÂM SỰ RIÊNG TƯ

Vào những năm 1960 thế kỷ trước, báo chí Sài Gòn đã hao tốn rất nhiều giấy mực vì phải đăng nhiều kỳ vụ nhạc sĩ Phạm Đình Chương ly dị vợ là nữ ca sĩ Khánh Ngọc. Tòa án xét xử nhiều lần chưa xong, vì thế vụ việc càng làm cả hai trở nên nổi tiếng, vừa theo nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Bởi lúc đó, ban hợp ca Thăng Long đang nổi đình đám nhất trong sinh hoạt ca vũ nhạc kịch thời bấy giờ, lúc ấy “nhóm Thăng Long” bao gồm nhiều nghệ sĩ nổi danh như Hoài Trung, vợ chồng ca sĩ Thái Hằng – Phạm Duy, ca sĩ Thái Thanh, vợ chồng ca nhạc sĩ Phạm Đình Chương (Hoài Bắc) – Khánh Ngọc. Nếu không kể đến người chị dâu Kiều Hạnh cũng là một nữ kịch sĩ đang được ái mộ trên các sân khấu thoại kịch.
Phải nói trong thời gian sau 1954, các ca kịch sĩ miền Bắc xuất hiện rất đông đảo trên các sân khấu lẫn đài phát thanh như Vũ Huân, Vũ Huyến, Lê Văn Vũ Bắc Tiến, Kiều Hạnh, Duy Trác, Anh Ngọc, Châu Hà, Hà Thanh v.v… Một phần, do ca sĩ trong Nam lúc đó chưa xuất hiện nhiều tên tuổi lớn, chỉ có một số ca sĩ đầy triển vọng từ phòng trà Đức Quỳnh giới thiệu như Bạch Yến, Cao Thái, sau có Minh Hiếu, Thanh Thúy, Túy Phượng… nhỏ hơn thì có Quốc Thắng, Kim Chi trong ban nhi đồng của nhạc sĩ Nguyễn Đức.
Khánh Ngọc đang là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, là một ca sĩ được nhiều người biết với tên gọi “ngọn núi lửa”, bởi cô có bộ ngực hấp dẫn và thường quyến rũ khán giả say đắm mỗi khi cô lên hát. Đồng thời Khánh Ngọc còn đóng mấy phim với nam tài tử Lê Quỳnh một loạt phim nói về những ngày di cư từ Bắc vào Nam do Mỹ thực hiện.
Trước khi đưa đơn ra tòa, nhạc sĩ Phạm Đình Chương đã nghe phong phanh Khánh Ngọc ngoại tình. Nhưng vì tình yêu nên ông vẫn tin tưởng vợ và bỏ ngoài tai tất cả những nguồn tin “lá cải” ấy. Chỉ đến khi một số người bạn hẹn ông đi bắt ghen tại Nhà Bè thì sự việc mới đổ bể. Lúc đó báo chí Sài Gòn biết rất nhanh, và vụ “ăn chè Nhà Bè” được các báo khai thác triệt để, do vợ chồng Phạm Đình Chương và “thủ phạm” đều là những người nổi tiếng, mọi người mới biết kẻ trong cuộc gây ra chuyện này không ai xa lạ, chính là người anh rể của ông.
Người đau lòng nhất chính là Phạm Đình Chương chồng Khánh Ngọc, vì ông rất yêu vợ, nhưng bấy giờ dư luận xã hội đều đã rõ tường tận nên đành phải gửi đơn xin ly dị.
Đây là quãng thời gian đau khổ, Phạm Đình Chương không còn tâm trí biểu diễn cùng các anh chị trong Ban hợp ca Thăng Long, ông lui về trong bóng tối thầm lặng viết những bài tình ca buồn, như để tâm sự với chính mình. Một loạt ca khúc mang tâm trạng như thế ra đời như “Đêm cuối cùng”, “Người đi qua đời tôi”, “Khi cuộc tình đã chết”, “Thuở ban đầu”, “Khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”…
Sau khi ly dị, nhạc sĩ Phạm Đình Chương được quyền nuôi con, khi ấy mới khoảng 4 – 5 tuổi, ông bắt đầu đi hát trở lại. Một lần tình cờ gặp Khánh Ngọc trên một sân khấu đại nhạc hội, ông có ý muốn đưa cô vợ đã ly dị về nhà vì trời đang mưa, nhưng bị từ chối. Bởi vậy khi lặng lẽ trở về căn nhà kỷ niệm với một thời sống cùng Khánh Ngọc, nhìn qua màn mưa nhớ về những ngày hạnh phúc, giờ đang trôi theo dòng nước.… có người nói Phạm Đình Chương định tự tử lúc bấy giờ, nhưng nghe tiếng khóc của con, ông mới từ bỏ ý định !?
Hình ảnh của đêm khốn cùng ấy đã đi vào từng lời bài hát “ Nửa hồn thương đau” được Phạm Đình Chương viết trong đêm rã rời đó. Nếu ai đã nghe một lần bài hát này và cũng đồng cảm với cuộc đời của ông sẽ hiểu được tâm hồn con người chỉ có thể chịu đựng một giới hạn nhất định.

NGƯỜI PHỔ THƠ MANG TÍNH THIÊN TÀI

Thật ra nhạc phẩm “Nửa hồn thương đau” của Phạm Đình Chương là được ông phổ từ thơ của Thanh Tâm Tuyền qua bài thơ “Lệ đá xanh”, nhưng ông đã đổi tựa và thêm ý tứ cho phù hợp với tâm trạng của ông lúc bấy giờ.
Có người nhận xét, lối phổ thơ thành nhạc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương mang đặc tính thiên tài, từ những vần thơ của các thi sĩ trở thành những nhạc phẩm luôn lưu lại nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng người ái mộ như các ca khúc Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Nửa hồn thương đau, Đêm màu hồng, Dạ tâm khúc (thơ Thanh Tâm Tuyền), Màu kỷ niệm (thơ Nguyên Sa), Mưa Sài Gòn mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn), Người đi qua đời tôi (thơ Trần Dạ Từ), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê) v.v… cho nên nếu so sánh cung cách phổ thơ của Phạm Duy, có thể nói Phạm Đình Chương xuất sắc không kém, do ông lấy văn học đưa vào nhạc, còn Phạm Duy đôi khi đưa thơ vào nhạc mang tính thị hiếu nhiều hơn.
Có người nói sự nghiệp của nhạc sĩ Phạm Đình Chương còn rộng tỏa trên bình diện của thể nhạc trữ tình lãng mạn, với những sáng tác phong phú đủ chủ đề về tuổi trẻ, tình yêu, hiện thực, hoặc chia sẻ nhịp rung cảm cùng mọi người như các tác phẩm : Bài ca tuổi trẻ, Thuở ban đầu, Mười thương, Mộng dưới hoa, Bài ca ngợi tình yêu, Đêm cuối cùng, Heo may tình cũ, Xóm đêm v.v…
Xuyên qua các nhạc phẩm trên, người ta lại càng nhận thức đầy đủ hơn nơi ý nhạc lời ca của Phạm Đinh Chương có một tâm hồn tươi trẻ, nồng nhiệt và cũng không kém phần thương đau, xót xa trong tan vỡ của yêu đương luyến nhớ, hay những khối chân tình qua từng bước chân phiêu bạt mà ông đã đi qua.
“Có lẽ sự rung động dễ thương của những con tim khi chớm nở loài hoa tình yêu mới là cảm xúc tuyệt diệu nhất được Phạm Đình Chương diễn tả bằng chính nội tâm hiện thực của ông qua ca khúc “Mộng dưới hoa” phổ thơ Đinh Hùng :
Chưa gặp em anh vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn anh không nói năng ….
“Cuối cùng không thể không đề cập đến “Trường khúc Tam Giang” tức “Hội Trùng Dương” với những nỗi niềm diễn tả tâm tư mang lời tự thuật thật sống động, đặc sắc của 3 con sông lớn đại biểu cho mạch sống của ba miền và được xem như là một đại tác phẩm trường tấu để đời của nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Trường ca này được liên kết thật chặt chẽ bằng những tiết tấu phối hợp sự biến âm đặc biệt biểu hiện tình cảm khi nhẹ nhàng, lúc khoan thai, khi hùng tráng, lúc trầm lắng, khi ngọt ngào, lúc thiết tha, quyện lẫn trong các câu hò mang sắc thái âm điệu thổ ngữ Bắc, Trung, Nam rất duyên dáng chân thành và trong sáng tình yêu quê hương vốn được hun đúc từ ngàn đời, tựa như 3 dòng sông tuôn chảy miệt mài ra biển Đông.
Sau đây là những nhạc phẩm do nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ từ thơ (một vài ca khúc tiêu biểu) :

NỬA HỒN THƯƠNG ĐAU
– phổ thơ Thanh Tâm Tuyền
Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa / Cho tôi về đường cũ nên thơ / Cho tôi gặp người xưa ước mơ / Hay chỉ là giấc mơ thôi / Nghe tình đang chết trong tôi / Nghe lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau / Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau / Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào / Em ở đâu? Anh ở đâu? / Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt / Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất / Và tiếng hát và nước mắt
Đôi khi anh muốn tin/ Đôi khi anh muốn tin / Ôi những người ôi những người / Khóc lẻ loi một mình…

ĐÔI MẮT NGƯỜI SƠN TÂY
– phổ thơ Quang Dũng
Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai / Sông xa từng lớp lớp mưa dài / Mắt em ơi mắt em xưa có sầu cô quạnh / Khi chớm thu về, khi chớm thu về một sớm mai
Đôi mắt Người Sơn Tây / U uẩn chiều luân lạc / Buồn viễn xứ khôn khuây, / Buồn viễn xứ khôn khuây / Em hãy cùng ta mơ / Mơ một ngày đất mẹ / Ngày bóng dáng quê hương / Đường hoa khô ráo lệ
Tôi từ chinh chiến đã ra đi / Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì / Sông Đáy chạm nguồn quanh phủ Quốc / Non nước u hoài, non nước hao gầy, ngày chia tay
Em vì chinh chiến thiếu quê hương / Sài Sơn, Bương Cấn mãi u buồn / Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm / Em có bao giờ, Em có bao giờ, Em thương nhớ thương.   ./.

NGUYỄN VIỆT



-------------------------------------------------------------------------------------
     trích từ blog ''một thời sài gòn"/ nguyễn việt
--------------------------------------------------------------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét