Nói Chuyện Với Nhà Phê Bình Vương Trí Nhàn
05 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 13481)
Trong những năm gần đây, chúng tôi cố gắng đưa vấn đề Văn học miền Nam trở lại văn đàn, bởi có một nhu cầu đến từ những người thực sự yêu văn chương ở trong nước muốn tìm hiểu về những tác giả và tác phẩm đã bị chính thức loại trừ sau 30/4/1975.
Trong chiều hướng đó, hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu cùng quý vị, tiếng nói của nhà phê bình và nghiên cứu Vương Trí Nhàn, một trong những nhà văn miền Bắc đã không ngừng tiếp cận với văn học miền Nam từ thời kỳ phân chia Nam Bắc đến ngày nay.
Qua những nhận định và phân tích của Vương Trí Nhàn, chúng ta sẽ thấy sự tiếp cận văn học giữa hai miền chưa bao giờ thực sự gián đoạn, và riêng ông, ông mong được đóng góp tích cực vào việc mở rộng con đường hợp nhất hai nền văn học Nam Bắc để có thể vẽ nên toàn diện bộ mặt văn học Việt Nam trong thế kỷ XX.
Thụy Khuê: Thưa anh Vương Trí Nhàn, xin cảm ơn anh lại một lần nữa vui lòng đóng góp tiếng nói trên đài RFI. Trước hết xin hỏi anh là hiện nay có dấu hiệu nào cho chúng ta thấy là văn học miền Nam đã bắt đầu hiện diện lại trên địa bàn văn học ở trong nước hay chưa?
Vương Trí Nhàn: Lâu nay, Văn học miền Nam như cứ tồn tại một cách lấp lửng ở Hà Nội, đôi lúc nổi lên, gây ồn ào, rồi lại thôi, để ít lâu sau lại xuất hiện dù không thành vấn đề lớn, song vẫn là vấn đề liên tục. Năm ngoái, vì có chuyện một số sách của Dương Nghiễm Mậu được in lại, sau đó lại bị phê phán, thành ra có người nghĩ rằng thế là thôi, từ nay nó bị đẩy lùi hẳn. Tôi thấy không phải, mà thực chất ngay từ mùa thu năm ngoái, năm 2007, báo Văn Nghệ đã mở ra mục giới thiệu một số tác phẩm của văn học miền Nam trước 75 và đã in một số truyện ngắn. Và đúng kỳ 30 tháng tư năm 2008, báo Văn Nghệ có ra số đặc biệt, lần đầu tiên đưa vào sưu tập mười truyện ngắn in ở Sàigòn, đấy là một điều đáng chú ý. Theo tôi, trong xã hội đang có nhu cầu muốn nhìn lại, tiếp cận lại bộ phận văn học này, tôi thấy đây là điều cần thiết và cũng muốn góp sức vào đó.
T.K.: Trước khi đi xa hơn nữa, xin hỏi anh về tình hình trước năm 1975, ở Hà Nội thời ấy đã có ai đọc một vài tác phẩm của Văn học miền Nam hay không, và nếu có, chuyện đó đã xẩy ra như thế nào?
V.T.N.: Văn học miền Nam hồi đó về Hà Nội ít ỏi lắm, gần như của cấm, muốn đọc phải mò mẫm đi tìm; tìm thấy rồi, đọc thấy hay rồi, muốn kêu lên với mọi người cũng phải tự nén lại. Song, một cách tự nhiên, một số chúng tôi biết rằng có nó, đinh ninh tin rằng một người muốn làm văn học một cách đứng đắn phải tìm tới nó -- các nhà văn từ Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu... hay lớp trẻ bọn tôi như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Trúc Thông hay một số bạn khác đã nghĩ như vậy. Một cách lặng lẽ, chúng tôi đã liên tục tìm kiếm sách báo, không bỏ qua một trường hợp nào mà không tìm kiếm. Có thể là chẳng ai hiểu văn học miền Nam cho đến đầu đến đũa, có thể sự hiểu chỉ loanh quanh ở những mảnh vụn, nhưng làm sao khác được, vừa đọc vừa đoán thêm tưởng tượng thêm. Và đã có một sự chia sẻ thậm chí như là giữa hai bên hình như vẫn có một cuộc đối thoại ngầm nữa. Vả chăng cái sự xa lạ là mãi về sau này mớí xuất hiện chứ ban đầu chính thức đâu có phải vậy. Có lần tôi đã tìm thấy một văn bản năm 56, ông Nguyễn Tuân, thay mặt cho giới văn nghệ Hà Nội, gửi điện cho những người viết văn ở miền Nam, nói rằng chúng ta sẽ cùng lập một đoàn đại biểu để đi dự hội nghị nhà văn ở Tân Đề Ly, bên Ấn Độ và chúng ta sẽ chờ cơ hội sáng tác để góp phần vào nền văn hóa dân tộc. Đây là chuyện ít người nhớ, cả người ở Hà Nội cũng không nhớ. Tôi cho rằng chúng ta nên tìm cách nhắc lại với nhau kẻo hiểu lầm mãi, hiểu lầm và tự mình bó buộc mình một cách phi lý.
Về sau này, từ những năm cuối chiến tranh và nhất là ngay sau 1975, nhìn trên bề mặt dễ có cảm tưởng là cả giới viết văn Hà Nội đều nem nép đi theo quan niệm chính thống chỉ đạo. Tức coi văn chương miền Nam là bỏ đi, những người viết văn ở Sàigòn trước kia toàn kẻ thù cả. Thực tế không phải thế. Nói người ta cứ nói, mà đọc người ta cứ đọc. Gần đây có nguội đi -- có nhiều lý do để nguội đi: bận bịu nhiều chuyện kiếm sống khác. Nhưng nguội đi không có nghĩa là thôi hẳn. Mà trong chừng mực nào đó là đi vào bề sâu.
Càng ngày tôi càng nghe được nhiều ý kiến nói rằng đánh giá thế nào thì đánh giá, có thể phê phán, có thể nhận xét thế này thế kia, nhưng phải công nhận rằng văn học miền Nam là một bộ phận của văn học Việt Nam thế kỷ XX, ở đó có rất nhiều vấn đề, nhiều đóng góp và phải có nó nữa thì văn học Việt Nam mới là chính mình. Vậy phải nghiên cứu tìm hiểu hệ thống hóa lại, phải in lại. Thời gian tới, tuy rằng đi vào cụ thể cũng có rất nhiều khó khăn song việc này phải được triển khai một cách bài bản thì mới hiệu quả được.
T.K.: Thưa anh, qua những dịp nói chuyện với anh, tôi biết là anh đã đọc khá nhiều văn học miền Nam từ lâu rồi. Nhưng hình như trước đây anh ngại phát biểu về vấn đề này. Ngày nay, anh sẵn sàng trở lại vấn đề này một cách công khai. Vì sao như vậy, chắc ở đây phải có một lý do sâu xa?
V.T.N.: Đúng là thời gian gần đây, tôi cảm thấy không thể im lặng mãi mà cần nói nên nói. Sở dĩ vậy lý do rất đơn giản, cái chính là đời sống trong nước gần đây có nhiều khó khăn, không phải chỉ là vấn đề kinh tế mà còn nhiều mặt khác trong đời sống tinh thần. Với tư cách là một trí thức, một người viết văn, điều làm tôi đau lòng nhất là nhìn thấy con người hiện nay, có cái gì đó như là suy thoái, tha hóa, tầm thường đi, trở nên hung hãn càn rỡ hơn, chỉ biết chiều theo những bản năng thấp, ham hưởng thụ và mệt mỏi, chán ngán, làm bậy. Tôi thấy chúng tôi những người viết văn có lỗi trong chuyện này và trước mắt phải nhận lấy trách nhiệm suy nghĩ và lý giải vấn đề này. Trong quá trình tự lý giải cho mình, tôi đi tới ý tưởng là con người hôm nay là hệ quả của chiến tranh. Nghĩ gì thì nghĩ, xã hội Việt Nam hôm nay là xã hội hậu chiến. Có người bảo 30 năm đã qua, mọi sự thay đổi rồi; nhưng theo tôi, thực sự xã hội Việt Nam vẫn còn đang phát triển theo quy luật của chiến tranh và nếu chúng ta không trở lại tìm hiểu cuộc chiến tranh, không nói rõ ra những đặc điểm của con người hậu chiến, thì không thể hiểu được đời sống trước mắt không thể gọi ra căn bệnh của con người hiện nay và cũng không thể góp phần chạy chữa và giúp con người sống tốt hơn được. Trong khi suy nghĩ về các vấn đề trước mắt, tôi tìm thấy nhiều gợi ý, đồng cảm ở Văn học miền Nam, cái phần mà tôi đã biết, đã đọc từ trước. Nó giúp tôi hiểu cả hai miền trong chiến tranh. Nó lại là cái sơ sở để cắt nghĩa tình hình hôm nay.
Trong tài liệu nghiên cứu, các sách văn học sử dạy ở nhà trường, chỉ thấy có Văn học miền Bắc là tồn tại thôi, còn Văn học miền Nam thì bị lờ đi coi như không có. Cùng lắm viết mấy câu qua loa vẻ chiếu cố và nặng về phê phán. Nhưng sự thực là trong thời gian 45-75, rõ ràng chúng ta có hai nền văn học cùng tồn tại, hai nền văn học đó bổ sung cho nhau, mỗi bên có giá trị riêng và mỗi giá trị đó không thể bỏ được.
T.K.: Anh nghĩ như thế nhưng vẫn còn nhiều người nghĩ ngược lại anh, tại sao vậy? Và anh có lập luận nào để bảo vệ ý kiến anh?
V.T.N.: Sở dĩ đôi lúc người ta khó công nhận Văn học miền Nam là hình như họ nghĩ như thế này: tức là nếu công nhận Văn học miền Nam thì [Văn học] miền Bắc coi như là thua, là kém, là không ra gì cả, thậm chí là hỏng, là vứt đi. Cách nghĩ "chỉ có một [nền văn học] thôi" là không phải, vì như vậy sẽ gây ra nhiều rắc rối trong việc tiếp cận nhau. Phải nói chúng ta có cả hai [nền văn học], và hai bên bổ sung cho nhau.
Tôi nghĩ độ một trăm năm sau, nếu muốn nhìn lại xã hội Việt Nam nửa sau thế kỷ XX, muốn hiểu con người sống như thế nào thì cần phải đọc cả hai. Nền văn học miền Bắc, tôi tạm gọi là văn học của chiến công, nền văn học lôi cuốn người ta đi vào cuộc chiến tranh. Còn nếu giờ đây có ai muốn đi tìm những trang sách diễn tả tình cảnh con người trong chiến tranh thì tôi khuyên họ hãy tìm đến phần văn học miền Nam. Đọc từ Võ Phiến, Mai Thảo, Y Uyên, Nhật Tiến, Thế Uyên… qua những tác phẩm của Nhã Ca, của Phan Nhật Nam, hay những bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn, chỗ nào tôi cũng thấy chiến tranh, xa gần đều có dây dưa tới chiến tranh.
Nếu trong truyền thống, chúng ta có mảng văn học chức năng, động viên thôi thúc con người hành động, ví dụ như Bình Ngô Đại Cáo hay thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, thì Văn học miền Bắc nối truyền thống đó rất rõ. Ngược lại, nếu đi tìm cái mạch nối tiếp truyền thống của Nguyễn Du, của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương,-- tức là tìm tới thứ văn học thiên về những đau khổ của con người, cả tình thế bi thương, đau đớn, cả sự bơ vơ, bất lực, trong đời sống này không biết tìm ra lối nào để đi đích nào để hướng tới -- thì tôi thấy ở Văn học miền Nam rõ hơn đầy đủ hơn.
T.K.: Nếu đặt Văn học miền Nam vào mạch chung của thế kỷ XX, anh thấy nền văn học này đã giữ địa vị nào và đã làm được gì cho nền văn học dân tộc của chúng ta nói chung?
V.T.N.: Thế kỷ XX là một bước chuyển của Văn học Việt Nam. Trước đó chúng ta có nền văn học theo mô hình Trung Hoa, ở đó có hai bộ phận chính, một gần với dân gian, một nữa là văn học chức năng, văn dĩ tải đạo. Sang thế kỷ XX, văn học chúng ta hiện đại hóa tức là vận động theo mô hình văn hóa phương Tây, đến năm 1945 đã tương đối hoàn chỉnh. Sau năm 45, có hai mảng văn học như tôi nói ở trên tức là Văn học miền Bắc và Văn học miền Nam.
Văn học miền Bắc đi theo luật riêng, một mặt, nó tiếp theo văn học tiền chiến, và một mặt – mà là mặt chủ yếu -- thì muốn làm công việc khai phá mới, đi lại từ đầu, tức là đi từ văn học dân gian lên và phủ nhận những kinh nghiệm của thời tiền chiến. Đặt trong cái mạch chung thì đến đây, bên cạnh phần nối tiếp, có sự đứt gẫy. Xét về mối quan hệ với văn học nước ngoài, Văn học miền Bắc trước 75 đứng tách ra, gần như cô lập, chỉ nối tiếp một phần với Trung Hoa và Nga, vả chăng, ngay cả Nga và Trung Hoa lúc đó cũng đứng cô lập với thế giới.
Ngược lại, Văn học miền Nam, rõ nhất là thời kỳ 54-75, một cách tự phát vẫn đặt mình trong cái mạch chung. Chúng ta bắt gặp ở đây những bước đi thường thấy ở các nền văn học Đông Nam Á là sử dụng các quan niệm các phương thức của văn hóa phương Tây để diễn tả đời sống con người hiện đại. Vì vậy, có thể nói Văn học miền Nam là sự tiếp nối bình thường của văn học tiền chiến, -- tức là thuận theo cái dòng trôi chảy bình thường của lịch sử. Chỉ có điều trong xã hội hậu thực dân, lúc này người Việt Nam sau thời kỳ tiếp nhận phương Tây muốn tự làm nên nền văn học của mình, thì lại chìm ngập trong chiến tranh, hỏi làm sao tránh khỏi nham nhở dở dang và sớm buông xuôi mệt mỏi.
T.K.: Nếu cần tìm về bản chất Văn học miền Nam, theo anh, những giá trị nào là cơ bản của nền văn học này?
V.T.N.: Ở đây có hai giá trị cơ bản của văn học, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tôi hiểu giá trị hiện thực với nghĩa đọc Văn học miền Nam trước 75, tôi hiểu con người Việt Nam trong chiến tranh. Ở thành thị, quân đội nước ngoài tập trung đến, đời sống hứng chịu bao nhiêu đảo lộn; còn nông thôn thì nay thuộc phe này, mai phe kia, con người bị bom đạn xua đẩy đi khắp mọi nơi... Đấy là những nét chủ yếu làm nên bức tranh hiện thực. Có lần tôi đọc một cuốn sách không thuộc loại nổi tiếng lắm của Túy Hồng, cuốn Bướm khuya, hay là cuốn Đoàn lữ binh mùa thu của Nhã Ca chẳng hạn, thì thấy những cuốn như thế - qua cách cảm thụ và diễn tả của các nhà văn nữ -- vẫn có cái chỗ khả thủ của nó. Nó cho thấy một thứ hiện thực mà trước đây chưa từng có. Bức tranh hiện thực diễn tả ở đây không phải là cái hiện thực mà chúng tôi, dân nghiên cứu ở Hà Nội quen nghĩ, tức là ở đó phải có giai cấp nọ, giai cấp kia, phải có địa chủ, tư bản, nông dân đấu tranh với nhau. Cái quan niệm hiện thực đó nó cổ rồi, nó khô cứng lắm rồi - theo sự hướng dẫn của nó mà đọc văn học miền Nam thì sẽ thất vọng. Hiện thực tôi nói ở đây là không khí đời sống nói chung, một thực tế ngột ngạt, đau đớn, có lúc như ma quái, người ta không thể nắm được, nó nằm ngoài tầm tay người ta, buộc người ta phải chấp nhận.Trong môi trường ấy, người ta cảm thấy mình bị như nung nóng lên, hành động ngôn ngữ không còn bình thường mà trở nên sai lệch tương lai thì vô vọng. Cái không khí đời sống như thế, tôi thấy rất nhiều trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam. Và như vậy là thực trạng xã hội đã được bộc lộ, được ghi nhận.
Hẳn có một số bạn sẽ thắc mắc tại sao tôi lại nói có thể tìm trong văn học miền Nam tinh thần nhân đạo. Bởi họ -- trong đó có tôi trước đây-- quan niệm một nền văn học nhân đạo nhất thiết phải làm nổi phần tốt đẹp trong con người rồi thương yêu con người, ca ngợi con người. Lúc này đây tôi nghĩ điều đó đúng nhưng không đủ, và không phù hợp với tinh thần hiện đại. Trong chủ nghĩa nhân đạo thời nay, người ta để ngỏ mọi khả năng mọi cách nghĩ về con người. Chủ yếu người ta bảo nhau không theo một định kiến có sẵn nào cả khi hướng tới tìm hiểu con người. Mà trước tiên là thông cảm, thấy tất cả những sự phức tạp, cái ghê gớm, cái đa đoan rắc rối của con người, nói chung là chia sẻ với con người trong trạng thái nhân thế nhiều khi kỳ cục của nó và gợi ý để mọi người cùng suy nghĩ tiếp về kiếp nhân sinh. Một quan niệm như thế giúp ta tìm thấy ở Văn học miền Nam những khía cạnh thú vị.
T.K.: Xin anh kể ra một vài tác giả hay tác phẩm nào trong nền Văn học miền Nam được anh lấy làm căn cứ vào để đi tới những điều anh vừa nói.
V.T.N.: Tôi nhớ ngay tới những cuốn sách của nhà văn Dương Nghiễm Mậu. Ta biết rằng trong thời kỳ đầu, Dương Nghiễm Mậu có nhiều suy nghĩ rất trừu tượng. Trong Cũng đành, tác giả nói về vấn đề tồn tại như thế nào, mình có quyền hành động gì, sự lựa chọn đúng hay sai, mình đang như thế nào, bản mệnh đã bị dày vò thế nào, đấy là phần đến rất sớm ở Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền và một số người khác. Về sau, khoảng sau 72, tôi được biết là Dương Nghiễm Mậu cũng có những tiểu thuyết như Con sâu, cũng đã diễn tả nhiều mặt tâm trạng và đời sống con người trước 75. Rất tiếc là tôi chưa được đọc cuốn này. Nhưng tôi có ấn tượng đặc biệt về Dương Nghiễm Mậu qua những bút ký ngắn in trên bán nguyệt san Văn khoảng 1972-74 tả những chuyến đi theo các đơn vị quân đội đến Tây Nguyên, ra Quảng Trị... Cùng với nhân vật có tên là Trực -- hình như chỉ là tác giả hóa thân để tự bộc lộ -- chúng ta chứng kiến đất nước mình tan nát, lớp trẻ bị chết, bị thương, đời sống mất hết sự thiêng liêng con người giãy giụa không tìm thấy lối thoát. Nhiều suy nghĩ có từ thời viết Cũng đành hiện ra với cái vẻ cụ thể của nó.
Thời gian mấy năm 72 -73, một số anh em bọn tôi ở tạp chí Văn nghệ quân đội có lúc xôn xao hẳn lên khi đọc một cuốn của Phan Nhật Nam, không phải cuốn nhiều người hay nói tới mang tên Mùa hè đỏ lửa, diễn tả không khí chiến trường rất ác liệt, mà là cuốn trước đó, cuốn Dấu binh lửa. Theo tôi, Dấu binh lửa gây ấn tượng mạnh, vì nó cho thấy sự tan vỡ tâm hồn, tan vỡ đời sống tinh thần của một lớp người thanh niên khi vào đời là vào với chiến tranh. Từ chỗ là một người đầy nhiệt huyết, muốn biết, muốn hiểu, muốn đóng góp, muốn làm cái gì cho xứ sở, nhân vật xưng tôi ở đây biến thành người không còn là mình nữa, chai lỳ, bất nhẫn, chỉ muốn đập phá. Phan Nhật Nam trong Dấu binh lửa là thế. Tôi nhớ là những nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, khi đọc cuốn này đều thấy nể, ngay cách diễn tả, cách viết rất trực tiếp và khả năng sử dụng tiếng Việt trong Dấu binh lửa cũng đáng ghi nhận. Khoảng 1990 -91 xuất hiện Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, đọc Nỗi buồn chiến tranh tôi lại nhớ đến Dấu binh lửa. Nhà tôi lúc đó gần nhà Bảo Ninh, tôi có đưa cho anh xem. Khi trả Bảo Ninh có nói với tôi -- không biết bây giờ anh có nhớ không, nhưng tôi vẫn nhớ. Rằng nếu tôi đọc cuốn này trước thì có lẽ tôi sẽ viết khác đi. Có cảm tưởng rằng đây là một trong những cuốn sách viết về chiến tranh mà bọn tôi không thể quên nổi và ở chỗ đó, nó cho thấy sự cần thiết tức cũng là những đóng góp của Văn học miền Nam, với vai trò ghi nhận được trạng thái nhân thế của con người một thời, tất cả những đau đớn, vật vã của con người trong một hoàn cảnh phi nhân văn và chính từ đó chúng ta có thể giải thích tất cả những biến động trong đời sống từ sau 75 đến nay.
T.K.: Phải chăng sự trở về với Văn học miền Nam của anh còn có một lý do khác, đó là từ khi về hưu anh có nhiều thì giờ đọc hơn và anh cũng đã khám phá ra nhiều cái mới.
V.T.N.: Cái đó cũng có. Giờ đây tôi có điều kiện đọc những cái mà trước kia bỏ qua, chẳng hạn một trong những say mê của tôi là đọc sử của mình những thời kỳ cũ. Thật ra ở Hà Nội người ta viết sử rất kém, từ lúc tôi đi học đã... không có sử. Rồi chúng tôi đâm lười đọc cả sử cũ. Rất xấu hổ phải nói là một người viết văn, trí thức mà chưa bao giờ tiếp xúc một cách nghiêm túc với những bộ sử rất quan trọng của chúng ta như bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Thông Giám Cương Mục hay những bộ sử sau này như Đại Nam Thực Lục của triều Nguyễn. Rồi cả sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, thời người Pháp sang tổ chức lại xã hội của mình nữa. Tất cả những trang sử ấy, bọn tôi biết quá ít, sự thực là chúng tôi có những định kiến sai lầm, những thành kiến, rồi cứ nuôi những thành kiến đó mà cứ tưởng đó là chân lý. Tôi có được may mắn là tự tìm ra được niềm vui đọc lại những cái đó và dần dà, qua liên tưởng đối chiếu, tôi hiểu thêm đời sống hôm nay. Thế thì Văn học miền Nam cũng là một bộ phận, một di sản của dân tộc, nó như những bức ảnh, những cuốn phim, ghi lại đời sống một thời. Với những nhà văn tư cách trí thức, chúng ta rất cần lùi xa lại quá khứ và từ khoảng cách xa như thế, nhìn chung cả lịch sử sự phát triển tinh thần của dân tộc.
T.K.: Tôi biết là anh đang có một dự định nghiên cứu dài hơi, anh có thể cho biết sơ qua về công việc mà anh đang bắt đầu làm không?
V.T.N.: Tôi đang muốn làm cái việc tạm gọi là tổng kết lại đời mình, theo nghĩa là dù mình có mấy chục năm làm việc nhưng nó cũng như là một bản nháp lộn xộn, bây giờ tìm xem cái gì là chính, là phụ cái gì dở, cái gì may ra còn với thời gian. Thêm nữa tôi vừa nhận viết cuốn sách về văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trên con đường ấy, tôi nghĩ là mình phải nghĩ lại nhiều điều, từ Văn học tiền chiến, bắt sang hai mảng Văn học miền Bắc (Văn học cách mạng) và Văn học miền Nam đang nói.
Trong quá trình đọc và nghĩ lại, tôi biết rằng vốn liếng của mình vừa mỏng mảnh vừa sai lạc. Một người như tôi cả đời sống với nghề này mà trong hành nghề còn những thiếu sót rất cơ bản, thí dụ thiếu khả năng để có thể tiếp xúc được với những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội cả của Tàu lẫn của Tây, cả hôm qua lẫn hôm nay. Và thiếu sót lớn nhất là quan niệm về văn chương và xã hội nhiều phần cổ lỗ. Tôi mong muốn cả những người viết văn nghiên cứu ở Hà Nội, ở Sàigòn cũ và bây giờ một số ở nước ngoài, mong rằng chúng ta cùng dành hẳn ra một thời gian nào đấy để nghĩ lại và vượt qua thành kiến cũ của mình, từ đó khi bắt tay vào việc tạo được sự mới mẻ trong khi tiếp cận với đời sống văn hóa, văn học của dân tộc trong thế kỷ XX. Nói gọn lại chúng ta phải thay đổi.
T.K.: Với anh, cái mà chúng ta phải thay đổi ở đây cụ thể là gì? Và tại sao chúng ta lại phải thay đổi? Bài học quá khứ đã cho ta những kinh nghiệm như thế nào?
V.T.N.: Đối tượng vẫn thế thôi, nhưng sự tiếp cận của chúng ta hôm qua đã thất bại thì hôm nay phải đổi cách nhìn, phải có những công cụ mới, cái nhìn mới. Tôi lấy ví dụ trong thực tế đời sống nghiên cứu văn học, văn hóa ở Hà Nội cũng đã có tình trạng như thế này: trong một thời gian dài Văn học tiền chiến coi như rất lắm tội lỗi và nhiều hư hỏng. Vũ Trọng Phụng dâm uế không được in lại, Nguyễn Công Hoan cũng có những sai lầm, Ngô Tất Tố cũng hạn chế, Tự Lực Văn đoàn coi như vứt đi hết, chỉ có Thạch Lam được yêu mến một chút thôi, chứ còn tất cả đến bây giờ vẫn coi lãng mạn là xa rời đời sống, xa rời nhiệm vụ dân tộc. Trước 75 chỉ có một cách hiểu như thế ngự trị. Đến bây giờ mọi chuyện đã khác đi, bây giờ lại bắt đầu nhìn Văn học tiền chiến như một niềm tự hào của văn hóa, văn học dân tộc, đi vào nghiên cứu cụ thể thì không được bao nhiêu nhưng dẫu sao đã thoát khỏi cách nhìn dung tục trước đây.
Và tôi muốn rằng sự thay đổi ấy cũng sẽ đến trong cái nhìn Văn học miền Nam trước 75. Tôi thấy, ví dụ như người Nga, họ cũng tự hào về văn học hải ngoại của họ, người Trung Hoa cũng tìm thấy ở Văn học Đài Loan, Văn học Hồng Kông những giá trị. Ở Đài Loan có những nhà văn như Bạch Tiến Dũng, các sách văn học sử của Bắc Kinh coi ông như là một tác giả quan trọng của nền Văn học Trung Hoa thế kỷ XX.
Khi không muốn thay đổi, người ta hay bảo đối tượng nghiên cứu của mình có những hạn chế. Ngẫm ra, ai mà chẳng có hạn chế, ví dụ bây giờ đọc bất cứ cuốn sách nào ở Hà Nội, đều thấy nói rằng Nguyễn Du có nhiều tư tưởng hạn chế, nhưng không phải vì hạn chế ấy mà tất cả chúng ta bỏ, không say mê Kiều và cảm thấy Kiều là phần thân thiết, gần gũi và là một tiếng nói tâm hồn của chúng ta. Trong việc trở lại Văn học miền Nam, cũng nên có thái độ tương tự. Ở đây cũng cần phải có sự giải phóng tư tưởng, và trước tiên phải có những chuẩn mực đúng đắn. Khi xét một nền văn học, cái chính là thấy nó như một bộ phận của đời sống tinh thần dân tộc, chỉ có tính chất nhân văn nhân đạo là đáng được xem như hệ quy chiếu duy nhất.
T.K.: Nếu so sánh sinh hoạt văn học hiện nay ở trong nước với sinh hoạt văn học miền Nam trước 75, anh có thấy điểm tương đồng nào giữa hai nền văn học này?
V.T.N.: Nghe thấy lạ song có cảm tưởng là văn học ở trong nước hiện nay đang có nhiều điểm giống như Văn học miền Nam trước 75, kể cả sự phát triển văn hóa đại chúng, kể cả sự học đòi nhiều lúc hơi xô bồ, tuỳ tiện đối với phương Tây, cái mệt mỏi của con người, nỗi băn khoăn của người trí thức để có một nền văn học khác đi, trí tuệ hơn mà cũng là hiện đại hơn. Nhiều lúc ở Hà Nội này, tôi đọc và cảm thấy có những hiện tượng quanh mình tôi đã gặp một lần đâu đó, sau nhớ lại hóa ra tôi đã đọc ở Sàigòn trước năm 75, thời ấy bên cạnh Bách Khoa, bên cạnh Văn, đã có đủ thứ nhốn nháo, nhố nhăng, tùy tiện rất buồn cười khiến nhiều người phải kêu trời. Về hội nhập mà nói, so với văn học trong cả nước hôm nay, văn học miền Nam cũng đã đi trước.
Ngoài sự trì trệ, ấn tượng chính của tôi về đời sống văn học trước mắt là các nhà văn trẻ đang muốn thay đổi, họ cũng không muốn viết, không muốn sáng tác như những người đi trước như bọn tôi nữa. Thế nhưng sự chuẩn bị không có. Thiếu sự chuẩn bị như thế, dĩ nhiên lỗi không chỉ ở lớp trẻ mà là ở lớp người đi trước, chúng tôi đã không góp phần chuẩn bị cho họ. Thành ra, ngay ở phương diện này, các nhà văn trẻ cũng có thể tìm thấy trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam, những ví dụ, những bài học. Để học theo có, mà để rút kinh nghiệm cũng có, theo hay tránh thì đều là những bài học hữu ích cho công việc của họ.
T.K.: Chắc anh cũng đồng ý với tôi là mặc dù giới trẻ trong nước hiện nay không có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với Văn học miền Nam, nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ, tìm tòi kỹ thì chúng ta vẫn thấy có một vài ảnh hưởng nào đó của Văn học miền Nam trên một số tác giả trẻ hiện nay. Vậy anh có thể lý giải cụ thể thế nào về hiện tượng này?
V.T.N.: Mặc dù có bị đẩy vào bóng tối, những phần tốt đẹp trong Văn học miền Nam vẫn như mạch nước ngầm len lỏi xuyên thấm vào đời sống văn hóa trong nước. Ví dụ như thơ, các hội thơ gần đây đã thường đưa Thanh Tâm Tuyền lên thành một tìm tòi của thơ thế kỷ XX ở Việt Nam và trong dư luận miệng tức là trong các cuộc trao đổi, mọi người trông vào các tìm tòi của các nhà thơ ở miền Nam trước 75 như những bước khai phá tiếp tục Thơ Mới, để tìm tới một giai đoạn mới của thơ và để thơ Việt Nam hội nhập thế giới.
Đi với thế giới đang là chuyện sinh tử của nền thơ trong nước nhất là thơ trẻ. Tôi cho là việc này đã được các nhà thơ ở miền Nam trước 75, giải quyết một cách tự nhiên, một cách liên tục, một cách đại trà rộng rãi, nó như một lối đi đã mở, ai có sức thì đi tiếp. Mà đâu chỉ riêng có thơ. Nhiều vấn đề lớn như thế nào là tiểu thuyết, văn xuôi đi về đâu, chấp nhận phương Tây thế nào thể hiện quan hệ cá nhân, xã hội ra sao - trước các vấn đề ấy các nhà văn miền Nam trước 75 đều đã thể nghiệm, các nhà văn trẻ bây giờ nếu đọc hẳn sẽ có nhiều gợi ý.
T.K.: Theo anh, nếu đưa được trở lại với đời sống, đâu là những điểm những khía cạnh mà nền Văn học miền Nam có thể giúp ích ngay cho sinh hoạt văn học trong nước?
V.T.N.: Nhìn chung, tất cả những phần đóng góp của Văn học miền Nam đối với nền văn học dân tộc, đều là những bài học quý báu cho việc xây dựng nền văn nghệ của chúng ta. Tôi chỉ nói ở đây một điểm là việc xây dựng ngôn ngữ văn học. Hiện nay trong đời sống Hà Nội, ngôn ngữ giao tiếp thông thường... rất kinh khủng. Hôm nọ có người viết bài về việc cần giữ chủ quyền trong ngôn ngữ, ý nói đang có cuộc xâm lăng ngôn ngữ, từ tiếng Anh, đến tiếng Hán xâm nhập vào tiếng Việt một cách lộn ẩu, và ngay cả ngôn ngữ trong tay những người người cầm bút hiện nay nhiều khi cũng hết sức lộn xộn, nhếch nhác, lâu lắm không có người viết văn hay. Trong lúc đó, tôi đọc lại Văn học miền Nam, với những ngòi bút bậc thầy, thấy ở phần hay nhất của mình, Mai Thảo Võ Phiến, mỗi người có giọng văn riêng, mỗi người một vẻ song đều đậm chất văn học, đều có cái dáng vẻ hiện đại và hé lộ cho thấy một đời sống tinh thần không thể có ở thời tiền chiến được. Rồi nhiều nhà văn khác, như Thụy Vũ, Nhã Ca, Trùng Dương, Túy Hồng, Y Uyên, Dương Nghiễm Mậu, Phan Nhật Nam, v.v... sau này là Ngụy Ngữ, Trần Thị Ng. H. văn xuôi của họ, đều là những thể nghiệm ngôn ngữ thu góp được cả cái mạnh của tiếng nói Hà Nội, cả cái mạnh của miền Trung và Sàigòn lục tỉnh. Từ trước 1975, nhiều người đã nói tới một số nhà văn di cư, họ cùng đóng góp đưa cho ngôn ngữ văn học của Văn học miền Nam lên trình độ một mực thước một cái chuẩn. Với tư cách một người từ Hà Nội nhìn vào, tôi cũng thấy hai mạch ngôn ngữ đó trong những nhà văn xuất sắc được kết hợp nhuần nhụy, đến bây giờ bọn tôi vẫn có thể trông vào đó để học hỏi. Hoặc trong việc dịch những tác phẩm văn học nước ngoài sang tiếng Việt, cách xử lý tiếng Việt của các dịch giả, tôi thấy đó là điều bọn tôi phải nể và phải tiếp nhận họ và trước tiên phải công nhận những đóng góp của họ.
T.K.: Xin hỏi anh về di sản văn học. Theo anh thì Văn học miền Nam có vai trò gì trong việc bảo tồn Văn học tiền chiến và trên mặt nghiên cứu văn học, theo anh, miền Nam có để lại thành quả nào mà anh thấy vẫn còn hữu ích cho giới làm văn học hiện nay không?
V.T.N.: Nhìn vào di sản Văn học tiền chiến, thì trong một thời gian dài, ở Hà Nội mất đi rất nhiều, nhiều tài liệu bị cất vào thư viện, sau đó không ai đọc, cuối cùng không biết ở đâu. Thì chính là ở Sàigòn, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn đã bắt đầu có sự nối tiếp, chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, đã góp phần làm giàu có thêm di sản chung của chúng ta. Gần đây, Từ điển văn học của nhóm Nguyễn Huệ Chi đã đưa vào một cuốn sách văn học sử mà riêng bản thân tôi rất thích thú và đã mua về để dùng, coi như là cuốn sách rất tốt về văn học sử Việt Nam,-- đó là cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ. Hồi ấy, ở Sàigòn có nhiều người rất nổi trên phương diện nghiên cứu văn học và biên khảo, ông Phạm Thế Ngũ chỉ là một nhà giáo và cuốn sách mà tôi nói chỉ là một cuốn giáo trình; nhưng thực sự gần đây đọc lại, tất cả mọi người đều công nhận đó là một cuốn sách viết rất nghiêm túc.
Về việc nghiên cứu và giới thiệu nói chung. Năm ngoái, một cuốn sách về triết học của Trần Thái Đỉnh, cuốn Triết học hiện sinhcũng đã được in lại. Hôm qua tình cờ tôi đọc lại Văn học miền Nam Tổng quan của Võ Phiến, thì thấy ông Võ Phiến cho biết cuốn Triết học hiện sinh đó có thời gian là cuốn bán chạy nhất năm nó ra đời ở Sàigòn. Điều đó với tôi là một chi tiết thú vị, bởi vì hiện nay ở Hà Nội cũng thế thôi, cũng đang có một khao khát tiếp nhận những cái mới của phương Tây, tiếp cận những tinh hoa của họ thế kỷ XX, và trong việc này tôi thấy Văn học miền Nam đã đi trước cũng như để lại những thành quả mà bây giờ chúng tôi không dễ gì vượt qua.
T.K.: Thưa anh, câu chuyện đã khá dài, trước khi từ giã, anh thấy có những điều gì nói thêm về việc đưa Văn học miền Nam trở lại văn đàn, điều mà anh thật sự hết lòng mong muốn thúc đẩy.
V.T.N.: Tôi bị ám ảnh bởi một điểm là chúng ta đến chậm quá, làm muộn quá. Hiện nay nếu muốn quay trở lại Văn học miền Nam, ngoài khó khăn tôi nói trên về tư tưởng, các quan niệm, thì khó khăn vật chất cũng rất cụ thể. Như không khí chểnh mảng không ai chuyên tâm. Lòng người thì vẫn tâm lý hậu chiến, tức là vẫn bị ảnh hưởng ngày hôm qua, không tách ra được để nhìn đối tượng văn hóa, bình tĩnh làm công việc một cách tốt hơn. Thứ nữa, tư liệu thì mất rất nhiều. Gần đây trên mạng talawas cũng đã trích đăng lại một số tác phẩm cũ của Văn học miền Nam, ở bên Mỹ, nhiều tác phẩm cũ được in lại, nhưng tôi vẫn cảm thấy chưa đủ. Thỉnh thoảng trao đổi với một vài nhà nghiên cứu khác cũng thấy thế. Chúng tôi có cảm tưởng mỗi người nắm một tí, tức là mỗi người chỉ nắm được phần của mình thôi, còn sự thực người có khả năng bao quát chung thì không có.
Câu chuyên về tài liệu đang là chuyện cấp thiết lắm. Có những tờ báo, tạp chí quan trọng mà thiếu nó không thể hình dung đời sống văn học một thời. Ở miền Nam, đó là Bách Khoa, Văn rồi là Trình bày, Khởi hành Vấn đề, Thời tập... Nhưng những bộ sưu tập báo và tạp chí đó không biết ở trong và ngoài nước còn giữ được bao nhiêu, và làm thế nào đưa nó lên thành tài liệu tiện dụng cho tất cả mọi người. Việc này cần không chỉ cho các chuyên gia Văn học miền Nam mà cho mọi người nghiên cứu nói chung. Bản thân tôi, khi giải quyết vấn đề gì, tôi đều rất muốn có dịp trở lại Văn học miền Nam, đọc lại nó để đối chiếu và tham khảo.
T.K.: Xin thành thật cám ơn anh Vương Trí Nhàn.
Thụy Khuê
thực hiện Chương trình Văn học nghệ thuật RFI, ngày 14 và 21/6/2008
--------------------------------------------
trích từ tạp chí hợp lưu (usa)
======================
thực hiện Chương trình Văn học nghệ thuật RFI, ngày 14 và 21/6/2008
--------------------------------------------
trích từ tạp chí hợp lưu (usa)
======================
Gửi ý kiến của bạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét