Nguyễn Văn Đông
Nguyễn Văn Đông | |
---|---|
Tiểu sử | |
Sinh | 15 tháng 3, 1932 Sài Gòn, Liên bang Đông Dương |
Mất | 26 tháng 2, 2018 (86 tuổi) Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | |
Thuộc | Quân lực VNCH |
Năm tại ngũ | 1951 – 1975 |
Cấp bậc | Đại tá Lục quân |
Đơn vị | Đơn vị Bộ binh Bộ Tổng Tham mưu |
Chỉ huy | Quân đội Quốc gia Quân lực VNCH |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Khen thưởng | B.Quốc H.Chương Đệ IV[1] |
Nguyễn Văn Đông | |
---|---|
Tên khai sinh | Nguyễn Văn Đông |
Nghệ danh | Nguyễn Văn Đông Phượng Linh Phương Hà Vì Dân Đông Phương Tử |
Thể loại | Nhạc vàng Tình khúc 1954-1975 |
Ca khúc tiêu biểu | Chiều mưa biên giới Hải ngoại thương ca Nhớ một chiều xuân Sắc hoa màu nhớ Tình ca hàng hàng lớp lớp |
Ca sĩ trình bày thành công | Hà Thanh |
Nguyễn Văn Đông (15 tháng 3 năm 1932 – 26 tháng 2 năm 2018), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ trường Thiếu sinh quân Quốc gia Việt Nam và sau đó là trường Võ bị Địa phương do Chính phủ Quốc gia mở ra tại miền Nam Việt Nam vào cuối thập niên 40 của thế kỷ trước. Ông còn là một Nhạc sĩ nổi tiếng trước năm 1975. Một số bút danh khác của ông là Phượng Linh, Phương Hà, Vì Dân và Đông Phương Tử.
Mục lục
[ẩn]Tiểu sử và Binh nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Ông sinh ngày 15 tháng 3 năm 1932 tại quận Nhất, Sài Gòn, miền Nam Việt Nam[2] trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở Tây Ninh. Thiếu thời, do gia đình có điều kiện, ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy học. Sau ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao.[3] Năm 1945, Chính quyền Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh. Năm 1946, gia đình gửi ông vào trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu, khi ấy ông mới 14 tuổi.[4]
Thời gian tại trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông được học nhạc với các Giảng viên âm nhạc của Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn, ông trở thành một thành viên của ban Quân nhạc Thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như "Thiếu sinh quân hành khúc", "Tạm biệt mùa hè"...[3] Năm 19 tuổi, ông rời trường Thiếu sinh quân và được cấp Chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).
Quân đội Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Cuối năm 1951, ông chính thức nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/120.117. Ông được theo học khóa 4 trường Võ bị Địa phương Nam Việt Vũng Tàu[5], Tháng 10 năm 1952, mãn khóa tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Qua năm 1953, ông được cử đi học khóa huấn luyện "Ðại đội trưởng" tại trường Võ bị Ðà Lạt. Năm 1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại Trung tâm Chiến thuật Hà Nội[6]. Ra trường, ông được giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Trọng pháo 553 và là Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia khi mới 22 tuổi.[4] Sau Hiệp định Genève 20/7/1954, di chuyển vào Nam ông được thăng cấp Trung úy, phục vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trưởng phòng Hành quân, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Đầu tháng 11 năm 1955, ông chuyển biên chế sang Quân đội Việt Nam Cộng hòa, được cử kiêm nhiệm chức vụ Trưởng phòng 3 (Tác chiến) của Phân khu Đồng Tháp Mười. Năm 1956 ông tham gia Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu do tướng Dương Văn Minh làm Tư lệnh, tướng Minh từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ.[7] Cuối năm 1957, ông được cử đi du học khóa Chỉ huy tham mưu tại Tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ.[8] Ngày Quốc khánh Đệ Nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm.
Sau ngày Đảo chính 1/11/1963, ông được thăng cấp Thiếu tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham mưu phục vụ ở Khối Lãnh thổ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Trung tá phụ trách một Phòng trong Khối Lãnh thổ. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được thăng cấp Đại tá chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu Phó. Ông đã ở chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975.
Năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]
Sau ngày 30 tháng 4, ông bị bắt đi Học tập cải tạo,[9] bắt đầu từ trại Suối Máu, một thời gian sau, ông bị đưa về giam ở trại tù Chí Hòa cho đến khi được trả tự do vào năm 1985. Kể từ đó ông đã ngừng sáng tác nhạc. Ông không xin đi xuất cảnh theo diện H.O. Hiện nay ông đang định cư tại Phú Nhuận, Tp HCM cùng với gia đình.
Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông qua đời vào 19 giờ 30 phút ngày 26 tháng 2 năm 2018 tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Ông đã từng nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc ở Sài Gòn trước 30 tháng 4 năm 1975. Trong thập niên 1950, ông nổi tiếng khi là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với thành phần Ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương, Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim... Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình Đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1958, ông là Trưởng ban Ca nhạc Tiếng thời gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc... Năm sau ông là Trưởng ban tổ chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp Quốc gia, đã quy tụ trên 40 Đoàn Văn nghệ đại diện cho cả Miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn. Ông cũng từng nhận giải Âm nhạc Quốc gia, một giải thường do Đệ Nhất Phu nhân Trần Lệ Xuân trao tặng.
Ông còn là Giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân... Hai cơ sở của ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở Tuồng và Cải lương. Chính ông là người đã tiên phong thực hiện album riêng cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc Sơn Ca nổi tiếng trong đó có Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh và Ban Thăng Long - Sơn Ca 10, Lệ Thu - Sơn Ca 9, Phương Dung - Sơn Ca 5 và 11, Giao Linh - Sơn Ca 6, Sơn Ca - Sơn Ca 8... và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.
Nhiều sáng tác của ông viết về chủ đề người lính Miền Nam thời đó. Nhạc phẩm "Phiên gác đêm xuân" được ông viết vào đêm 30 Tết năm 1956 khi gác phiên ở khu 9 Đồng Tháp Mười. "Chiều mưa biên giới" ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua tiếng hát của Trần Văn Trạch. "Chiều mưa biên giới" và "Mấy dặm sơn khê" đã từng gây cho ông nhiều khó khăn khi bị Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa ra quyết định cấm phổ biến vì lý do phản chiến vào năm 1961. "Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp" nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh nhưng thường bị nhầm với nhạc phẩm Khúc tình Kinh Kha của Phạm Duy. Hà Thanh cũng chính là ca sĩ trình bày thành công nhất các nhạc phẩm của ông.
Ông còn có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà trên một số nhạc phẩm tình cảm như "Khi đã yêu", "Thầm kín", "Niềm đau dĩ vãng", "Nhớ một chiều xuân"... Với bút danh Đông Phương Tửvà Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, Cải lương nổi tiếng ở Miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng...
Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]
Số thứ tự | Tên tác phẩm | Bút hiệu | Chú thích | |
---|---|---|---|---|
Anh | ||||
Anh trước, tôi sau | ||||
Bà mẹ hai con | ||||
Bài ca hạnh phúc | ||||
Bến đò Biên giới | ||||
Bông hồng cài áo trắng | Khác với "Bông hồng cài áo" của NS Phạm Thế Mỹ | |||
Chiều mưa Biên giới | ||||
Chúc tết | ||||
Chuyện tình hoa Pensée | ||||
Cuốn theo chiều gió | ||||
Cung thương ngày cũ | Đồng sáng tác với Nhạc sĩ Mạnh Phát | |||
Dáng xuân xưa | ||||
Đêm buồn | Đồng sáng tác với Nhạc sĩ Lam Phương | |||
Đêm thánh huy hoàng | ||||
Đôi bờ thương nhớ | ||||
Đồng Tháp duyên gì | Viết chung với Nhạc sĩ Minh Kỳ | |||
Hải ngoại thương ca | ||||
Hiến dâng | ||||
Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp | ||||
Khúc xuân ca | ||||
Lá thư người lính chiến | ||||
Lời hứa ban đầu | ||||
Màu xanh Noel | ||||
Mấy dặm sơn khê | ||||
Mùa sao sáng | ||||
Ngày mai anh về | ||||
Ngày vui pháo nhuộm đường | ||||
Người tình yêu dấu | ||||
Nguyện cầu trên bến ngàn năm | ||||
Nếu có em bên anh | ||||
Nhớ một chiều xuân | ||||
Nhớ người viễn xứ | Đồng sáng tác với Nhạc sĩ Lâm Tuyền | |||
Núi và gió | ||||
Phiên gác đêm xuân | ||||
Sắc hoa màu nhớ | ||||
Thu hoài cảm | ||||
Tình cố hương | ||||
Tình đầu xót xa | ||||
Trái tim Việt Nam | ||||
Truông mây | ||||
Về mái nhà xưa | ||||
Vô thường | ||||
Việt Nam hôm nay | ||||
Xa người mình yêu | ||||
Xin chúa thấu lòng con | ||||
Bóng nhỏ giáo đường | ||||
Cay đắng tình đời | ||||
Chiếc bóng công viên | ||||
Cô nữ sinh Gia Long | ||||
Dạ sầu | ||||
Đoàn chim cánh sắt | Đồng sáng tác với Ngọc Sơn | |||
Đom đóm | ||||
Đoạn tuyệt | ||||
Giáo đường chiều chủ nhật | ||||
Khi đã yêu | ||||
Lời giã biệt | ||||
Mây chiều | Viết chung với Mây Tần | |||
Nỗi buồn duyên kiếp | ||||
Niềm đau dĩ vãng | ||||
Thầm kín (Bẽ bàng) | ||||
Thương muộn | ||||
Thương về mùa đông biên giới | ||||
Tình người ngoại đạo | ||||
Xin đừng trách anh | ||||
Ave Maria | Franz Schubert | |||
Đêm thánh vô cùng Stille Nacht | Franz Xaver Gruber | |||
Hồi chuông nửa đêm The One Horse Open Sleigh (Jingle Bells) | James Pierpont |
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Đệ Tứ đẳng Huân chương Bảo quốc
- ^ Nguyên quán của ông ở Lợi Thuận, Bến Cầu, Tây Ninh
- ^ a ă Trường Kỳ (26 tháng 11 năm 2008). “Nguyễn Văn Đông: Giữa binh nghiệp và âm nhạc”. TiVi Tuần-san.
- ^ a ă Du Tử Lê. “Binh nghiệp và nhạc nghiệp của Nguyễn Văn Ðông”. Người Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2010.
- ^ Còn gọi là trường Võ bị Cap Saint Jacques
- ^ Sau Hiệp định Genève, chuyển cơ sở vào Nam tọa lạc tại Sài Gòn cải danh thành trường Đại học Quân sự. Năm 1960 trường di chuyển lên Đà Lạt đổi tên thành trường Chỉ huy và Tham mưu. Năm 1971, một lần nữa trường lại di chuyển cơ sở về Long Bình, Biên Hòa
- ^ Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã được in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa.
- ^ Trong thời gian này ông cho ra đời tác phẩm "Nhớ một chiều xuân"
- ^ Một hình thức đi tù khổ sai
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét