SUNDAY, JANUARY 21, 2018
. truyện ngắn HỒ ĐÌNH NGHIÊM / Bảy ngàn chữ
ĐẠI NỘI, HUẾ - photo by Raynald Savard (Quebec, Canada)
Tôi từng có dịp thất thần lên núi, từng có khi về đứng choáng ngộp trước biển. Bầu trời ở hai chốn đó mang vẻ lạ lẫm khác nhau, nhưng tựu trung chúng váng vất chút hoang dã, mênh mang chút hăm doạ.
Vuông trời trong Đại nội thì khác hẳn, mây bay ngang tự dưng vấn vương sắc tím; trời đang lững lờ xanh trong không dưng phải chịu phủ dụ, tráng lên đó một tí vàng vua chúa một tí lục của rong rêu. Thứ sắc màu trông cũ kỹ, nửa ấm áp nửa kia là thoáng rợn da. Khái niệm sáng trưa chiều luôn bị đánh lừa, thời gian nhích qua đây làm người ta ngờ vực về một vó câu luôn hăm hở trôi bên ngoài cảnh giới. Trôi đi trôi đi, để lại sự hoài cổ lay động trên cây ngô đồng đứng trầm mặc giữa cổng Hiển Nhơn nối tới điện Thái Hoà.
Tôi chở o [cô] đi và vô trong nội là mệnh lệnh o ưa truyền đạt. Huế nhỏ, đồng ý, nhưng không vì thế mà người ta bức đầu vò tóc nghĩ chẳng ra một đích tới. Bộ hết chỗ chơi hay răng? Tôi có cảm tình với o và làm mất lòng kẻ khác là điều chẳng ai muốn. O mang tên một loài hoa và tôi hơi choáng khi nó trùng tên với mạ tôi. Chỉ khác họ, kỳ dư chữ lót cùng hương sắc của hoa thì y trang. Và nói có trời chứng giám, tôi là đứa con rất mực hiếu thảo chưa từng làm mạ phật lòng. Đồ con quỉ! Mạ tôi có khi ngầy ngà, nhưng tôi tin đó là lời mắng yêu. Quỉ sứ! Đôi khi o rủa xả và tôi nhăn răng cười nghe hạnh phúc lẫn khuất sát bên lưng. Thú thật, tôi đành làm đứa bất hiếu để giữ vững lập trường, ấy là nhan sắc của mạ tôi chẳng thể sánh cùng o được. Tôi mang cái ý nghĩ, chả biết đúng không, là càng sinh sau đẻ muộn chừng nào thì con người càng sáng lạng đẹp đẽ hơn tiền bối. Xem ảnh xưa, đọ ảnh mới thì phát hiện người trong ảnh hiện đại ngó mát con mắt hơn. Văn minh đã tác động,đã biến đổi thân phận chúng sinh. Nhưng ngược lại văn minh cũng tước đoạt đi phần nào đức hạnh có đầy trong lòng phụ nữ thế hệ mạ [mẹ] tôi. Nhiều khi thấy o làm đày làm láo, nói cạnh nói khoé thì e rằng o mà gặp phải mạ tôi thì sẽ bị bà cụ sửa lưng cho. Tôi mà sửa lưng thì o la lên: Quỉ sứ, làm người ta nhột bắt chết! Thiệt dị òm!
Đại nội buổi chiều luôn êm ả. Chim chóc hiếm quý về ẩn mặt trên cây cao hót vang rân lời tình ca thanh cao mát như chè đậu ngự thơm như chè hột sen. O sẽ làm chúng thôi hát hò khi dùng một vật nhọn để khắc tên vào thân cây mưng mủ. O ra đề và tôi không cách gì giải được bài toán đố dễ ợt ấy: Bao nhiêu cây khắc tên hai đứa và bao nhiêu cây có trái tim thành sẹo? Có khi vì muốn chôn dấu niềm bí mật, o đã cả gan leo lên một thân cây nhiều nhánh hí hoáy ghi tháng ngày lưu niệm. Tôi đứng bên dưới đám cỏ rạp mình với tư thế và nhiệm vụ của Thường Sơn Triệu Tử Long liều mình cứu ấu chúa. Tôi ngó mông đít của o và cầu trời cho o làm trái sầu riêng rụng sau hè để tôi ôm lấy, để tôi làm sáng tỏ vấn nạn rất mực hồi hộp: giữa hai đứa ai là kẻ bể đầu u trán, rách áo sút quần.
O mặc đồ bộ, áo quần tự cắt may không cần chuẩn không cần chỉnh. Vải chim cò mua ngoài chợ chẳng cần hỏi ý thằng quân sư theo hầu. Thứ y phục kia rõ là dùng để diện trong nhà, để mặc ngủ. Để ngầm thanh minh thanh nga: Bậy nà, mô có, đi chơi với bồ răng lại cẩu thả tới mức nớ. Đừng vu oan giá hoạ! Bộ đồ đó có khi o mặc để đi ra thị tại môn tiền náo cấp bách mua đường sữa diêm quẹt thuốc lá. Khôn, đến chốn lao xao; dại, tìm nơi vắng vẻ. Khôn hay dại đều phục sức tuềnh toàng nhất y độc quỡn, ngó quen con mắt. O ở với anh chị, nhà họ khá rộng, ngăn phân nửa mặt tiền dùng bán cà phê. Tiệm họ có khách, đông đảo buổi sáng, thưa thớt ban trưa, chộn rộn giấc tối. Khách đủ hạng bậc, đa phần là công chức, sinh viên học sinh, lèo tèo đôi ba ông lính xa nhà, vì công vụ phải mang thân ra trấn nhậm tuyến đầu, áo phong sương va vấp gió Lào bụi bặm Cổ thành bùn lầy sông Thạch Hãn. O và người chị đã có một con vô tình là đích nhắm của bọn khách lai tạp vui chân lân la kéo ghế. Quán có treo bức tranh xấu vụng thuở đầu đời của tôi, nhưng cái bảng hiệu tôi kẽ sơn sắc lẻm thì chín người hết chục đều trầm trồ tán dương. Mạnh miệng nhất là o: Suốt cả cuộc đời, tui dám cá, không có ai viết tên tui đẹp ác ôn như ri cả! Bắt buộc rồi, tôi nói thầm, bởi mấy khi mà được viết tên mạ mình ra, trịnh trọng với màu sắc từng qua bao đắn đo, to đùng, dĩ nhiên tôi phải le lưỡi ra mà nắn nót. Làm môn bài dựng bảng hiệu cho người dưng hạ hồi phân giải, trước mắt thấy công việc có nhuốm mùi linh thiêng. “Mạ ơi chớ đánh con đau, để con bắt ốc hái rau mạ nhờ”, nghĩ lại quả là chuyện nhỏ, bì chi lại với chuyện phục vụ thẩm mỹ, treo lên, ngó sáng rỡ cả khúc đường luôn ủ ê bóng tối.
Tôi thường ngồi đồng ở quán ấy, ngồi thế thôi, tựa một kẻ nhác chơi chứ không mang tà ý được thủ vai vế một cây si đang hồn lìa khỏi xác. Người đàn ông chủ quán ngờ vực tôi mê mệt vợ anh ta, có lẽ. Ông ta đánh ra một hư chiêu bằng cách biểu cô em tới cà khịa. Hai bà Trưng, chị ngồi rung đùi xem em hí lộng dương oai điệu võ. Mi phải thắng vì chiến trường này thuộc đất ta, lại nữa sau lưng mi có cả một hậu phương hùng mạnh vững chắc. Ta sẽ đích thân mang đao ra trận tiền hồi nào mi thân bại danh liệt. Lộng ngôn cho oai phong lẫm liệt chứ bản mặt cái thằng uống ly cà- phê đá nhỏ chút xíu mà phải mất ba giờ đồng hồ mới xong kia coi bộ cũng sáng láng, trầm ngâm như táo bón chứ đâu lộ vẻ nham hiểm thủ đoạn gì cho cam. Mình bán buôn, họ là khách quen, mi nhớ lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. O là gái Huế trời bắt đẹp, o không phải gái Bình Định cầm thương cỡi ngựa múa roi vung quyền nên phút đầu ra quân o xuội lơ ngồi xuống ghế bàn giao vũ khí tự nguyện ký kết hiệp ước hoà bình.
Sau này kể lại sự tình, o ta thán: Răng tui hiền khô rứa không biết! Rồi hoành đao: Nhưng tuyệt đối hắn không dễ bị ăn hiếp. Rất cứng rắn để phân định đâu là lý đâu là tình. O tâm sự, ba mạ tui vẽ đường cho hươu chạy: Thứ nhất bác sĩ thứ nhì kỹ sư thứ ba chuyên gia kinh tế. Tui định hướng về đường một chiều: Thứ nhất văn sĩ thứ nhì nhạc sĩ thứ ba hoạ sĩ. Nghe bồ học Mỹ thuật tướng tá nghệ sĩ nên… có nói năng chi cũng thừa. Tôi la lên trong lòng, hoan hô đồ bất hiếu, nhờ em mà thế giới này bớt chật chội bớt ngột ngạt bớt nhung nhúc những bác sĩ kỹ sư.
Chúng tôi đi trong không gian vua chúa cận thần ngày cũ lùng sục một chỗ ngồi xét thấy bình yên, thoáng đãng. Giữa những dãy tường thành kiên cố vây bọc luôn lai vãng một hương mùi có vẻ không thực, thoạt biến thoạt hiện. Không chính xác là mùi long não, nó gần với thứ mùi luôn ngự dưới đáy rương. Nó cất giữ những cổ vật để khi nhìn thấy nét tàn phai, điều khiến bạn mềm lòng chính là thứ mùi ẩm mốc, nó đi qua bao thời gian trong câm nín và nó đang tan rã vào hư không. Nó lưu trong khứu giác bạn lời hờn trách nhẹ, xa vắng về cái vô tâm mà bạn lỡ phải lựa chọn khi tiến bấp bênh tới trước.
Tôi ngắt cho o một cành hoa dại run lên giữa đám cỏ mọc đầy hoa mắc cỡ trong khi o trải khăn và bày thức ăn ra. Căn cước bọc nhựa, thẻ sinh viên trong túi quần là thứ vật bất ly thân, hầu như tôi luôn moi ra để trình cho nhân viên công lực khi họ làm nút chặn rà soát an ninh thành phố. Vậy mà tôi không nhìn thuộc ngày tháng năm sinh. O nói, hôm nay o dậy lúc năm giờ sáng để thong thả tự làm bánh nậm, rửa lá chuối, khuấy bột, làm nhân tôm thịt, gói rồi hấp trong nồi nước chưng cách thuỷ. Hơi phá lệ, hơi cầu kỳ bởi giản dị hôm nay là ngày sinh nhật của tôi. Tôi đứng yên một khoảnh khắc vì bất ngờ, vì cảm động rồi như do ma quỉ xúi dục tôi dang rộng vòng tay để ôm chặt lấy o. Tôi gọi thầm tên o cũng là tên mạ tôi nhiều lần trong tâm. Nếu là hoàng thượng tôi sẽ cởi long bào, ném xuống đất cho được thong dong, rồi bồng o mang đặt lên ngai vàng. O anh minh như thế thì những oan trái khuất lấp của dân sẽ được mắt xanh ngó ngàng tới, hỏi han, ân cần để gia ơn.
O mang theo đủ đầy bộ sậu để chu toàn buổi picnic đầy bất ngờ. Bánh o làm muôn năm sẽ không dở bởi ngoài những nhu liệu căn bản để làm nên bánh còn được o pha trộn lòng thương yêu vào, kín đáo, ý tứ, dịu dàng. Tôi hỏi, tại sao Huế có thành ngữ “con yêu bánh nậm”? Yêu tinh hay yêu thương? O nói o không biết, ngay cả đó là lời tuyên án hay mỹ từ dùng để tán dương. Khi nghe ai quở “đồ con yêu bánh nậm” thì chắc là ẩn chứa sự chê bai, ác ý. Tôi nói, trong các thứ bánh, tôi yêu bánh nậm nhất. Mỏng lét, ít nhân nhụỵ, rác ngập đầu mà bụng vẫn chưa no, có thể buồn miệng ăn luôn cả người dậy sớm để làm ra nó. Thay vì mắng quỉ sứ như thường nhật, o hát nhỏ bài Happy birthday. Đôi khi chim không về, chim thôi hót bởi vì dưới mặt đất kia vừa có ai ngân nga một cung bậc trong vắt, sóng sánh làm chao lòng người. “Chim xa rừng thương cây nhớ cội, người xa người tội lắm người ơi”. Chim thôi hót cũng do lẽ chim biết dự báo một hoạn nạn sắp đổ về qua tiếng vọng của bom đạn tự rừng sâu. Chim lặng lẽ bay, người lặng lẽ giấu kín những nỗi niềm.
Chiến tranh lan rộng làm thu hẹp vùng đất đặt chân, và ứng xử duy nhất buộc phải xảy đến là người ta mang mạng sống mỗi cá nhân vắt giò lên cổ làm cuộc Nam tiến. Ba chân bốn cẳng mà vượt đèo cao núi lớn. Tiệm cà- phê chưa thực sự cửa khoá then cài nhưng tên quán, tên o, tên mạ tôi tuồng như có suy suyển chợt vẹt hư hao móp méo thôi phát hào quang. O giữ tôi lại, biến tôi làm một thành viên tham dự phiên họp kín. Anh chị o quyết định bồng con dại vào Đà Nẵng, trở ngại họ gặp phải là o không chịu đi. Lý do vững chải o đưa ra, đi cũng đồng nghĩa làchịu mất cái quán này. Cam tâm không? Đi, đành lòng qua cầu rút ván, hay đi còn mong ngóng một trở về? Không ai trả lời được câu hỏi sáng suốt kia. Và tôi, vô tình làm đứa để cho anh chị o đặt để niềm tin. Họ trao cho tôi một bao vải, thứ dùng đựng cát để che chắn đạn pháo, họ bảo số tiền chứa trong này không nhỏ, có thể cầm cự sống thở nguyên tháng, hãy chăm sóc bảo vệ lấy o, sống chết có nhau đồng kham cọng khổ. Người chị o nhìn tôi như muốn xác tín lại lần chót một hy vọng không trông nhầm người. Giao trứng cho ác là điều bất khả. Vào thắp nhang bàn thờ ôn mệ mà khấn cầu. Anh rể bắt tay tôi, người chị ôm siết o, đứa bé ngủ mê mệt trên tay bà giúp việc. Và tối đó một chiếc xe nhà binh ghé lại, mang họ xuôi Nam. Mái tóc rối bung của người chị bay ra ngoài ô cửa ngoái nhìn, đêm nội thành sương xuống pha màu sữa đục. Tất cả lặng câm, kể cả động cơ gắn ở chiếc xe màu cứt ngựa đang vụt biến kia.
O khoá chặt cửa nẻo, trước sau. O không tắt đèn, để minh định nhà vẫn còn người sống thở bên trong. O sợ bóng tối, trong muôn một, nó là đồng minh của cô đơn và ở một mặt nào đó, nó xúi dục người ta làm chuyện rồ dại, trao vào lòng ta sự can đảm đến mù quáng. Trai đơn thân gái lẻ bóng, khi có dịp kề cận trong gang tấc, muôn đời họ ưa lẫn vào bóng tối, ước ao bóng tối phủ chụp lên xác thân, nhưng bây giờ chưa phải là thời khắc đó. O biểu tôi giả làm người khách cuối cùng ngồi yên trên ghế để o đóng vai cô hàng nước pha cà phê mang ra. Chúng tôi là hai diễn viên tồi tệ chẳng biết cách nhập vai. Sau cùng, hết hoang mang o mang ra một gói thuốc, ngồi ghế đối diện và chúng tôi cùng thở khói chung một điếu chuyền tay. Mắt o đen láy, khói thuốc như biết làm cho nhãn tuyến kia ướt át, sâu thẳm. Đang chuột sa hũ nếp, đang rơi vào kho thực phẩm phồn thịnh nhưng chúng tôi thích san sẻ, uống chung tách cà phê đen, làm ngắn cụt mau bề dài điếu thuốc. Thảng hoặc o ho lên, tiếng khô, thảng hoặc o vén tóc nhét bên tai, thảng hoặc o ngắm lên bức tranh tôi vẽ, thảng hoặc o lắng nghe một tiếng động vụt qua bên ngoài cánh cửa ngăn chia. Nhưng trong ngần ấy thời khắc của canh khuya o tuyệt không nhìn vào mặt tôi. Xúc giác chúng tôi nhìn nhận ra chỉ là khoảnh ngắn khi chuyền tay điếu thuốc. Khói la đà váng vất trên vuông bàn như ý nghĩ tôi dật dờ sẽ làm gì đêm nay.
Tôi nói đến phiên tôi làm chủ o làm khách và tôi sẽ thực thi châm ngôn của người nước ngoài: Khách là thượng đế. O 'oải', hết hứng thú, nhác chơi. O bảo, đi theo o để chỉ bày một vài nơi chốn. Đây là chỗ tắm rửa, đằng sau tấm màn là chỗ tiêu tiểu. Đây là bếp. Đây là chỗ tui ngủ ngáy. Giường này của anh chị tui. Bồ sẽ ngủ ở đây.
Trên vách có treo tấm ảnh chụp lấy hai vợ chồng, có lẽ trước ngày cưới. Cạnh đó máng cái đồng hồ mặt tròn và kim chỉ giờ đang rơi tới số 4. Có thể nó đã chết, đã rối dây tóc. Hai cây kim thôi xê dịch, thời khắc sững yên. Nếu nó sống thì bốn giờ sáng không phải là lúc hối thúc người ta đi ngủ. Bình thường, đó là khoảnh khắc mà người ta đang chìm trong mộng đẹp, người ta hưởng thụ điều không thực đó, nướng thân trên chăn ấm nệm êm cho đến khi gà trống rướn cổ lên gáy sau vườn nhá nhem. Mặt trời lên, người ta bần thần ngồi dậy, ngác ngơ trong mùng tối để hiểu vỏn vẹn một điều, mình còn sống, mình chưa thầm lặng ra đi trong đêm. Một kiếp người, có được bao nhiêu đêm người ta an lòng sống trong giấc mộng? Tôi không ngủ, tôi đang tỉnh thức, có nghĩa là tôi biết tôi đang thực sự chìm vào một cơn mơ. Tôi ở gần o quá, dưới một mái nhà và chỉ có o và tôi. Tôi chưa bao giờ có điều kiện để tâm sự cùng o, ít ra là nói cho o nghe niềm bí bật: Tên o mang trùng hợp với tên mạ tôi, người tôi yêu quí suốt đời, thủy chung, bất biến. Hơn cả đường mía lau, hơn cả nước trong nguồn chảy ra, hơn cả trời biển.
O bảo, o đi tắm khi đến bên tủ lục soạn áo quần. Này quần lót, này áo nịt ngực lần lượt ló dạng trên tay. Tôi ngó thấy, cắc cớ nghĩ, sao con gái họ khổ thân đến thế? Ngay cả khi ngủ họ cũng phải trang bị bao nhiêu khê là vật cản trở, máu huyết làm sao lưu thông vận hành êm đẹp? Họ trần như nhộng có phải là da dẻ được mượt mà thông thoáng hơn không? Chưa kể là lỗ chân lông có điều kiện xả bớt những bức bối suốt ngày bị giam giữ. Cơ thể họ thơm tho hơn và họ có thể phát hiện những đổi thay trên da thịt mình. Và… và…
O đóng kín cửa phòng tắm. Nghe được cái móc sắt vừa gạt qua ngấc an toàn. Một khẩu súng e cũng tựa thế, bóp cò không được khi bị khoá chốt. Đạn sẽ vãi ra khỏi nòng hồi nào anh mở khoá, buồn tay anh gạt nó qua ngấc tự động, 15 viên bay ra trong tích tắc để hậu quả ghi nhận có biết bao kẻ từ chết tới bị thương… Tôi ngồi xuống chiếc giường được chỉ định, suốt đời tôi chưa bao giờ được ngả lưng xuống cái mênh mông tựa thế. Tôi quen ngủ giường cá nhân chật chội mình 'ên' không thể xâm phạm. Giường này dành cho hai người, một đôi vợ chồng. Con nít thì ngủ nôi nên chắc chiếu chẳng ngấm mùi nước tiểu. Hai chiếc gối căng phồng và tôi lựa chiếc gối sát vách để kê đầu. Thường, nam nhi đại trượng phu vẫn nằm ngoài đểche chắn bảo vệ. So ra tôi thích chỗ nằm của người nữ hơn, chưa kể người nữ ấy là chị ruột của o. Nếu o thơm như múi mít thì người chị phải sở hữu mùi sầu riêng. Nếu o là lê thì chí ít chị o phải là lựu bởi giản dị chị o từng là đèn mà o từng làtrăng. Tôi úp mặt xuống gối ngửi lấy thứ hương mùi bồ kết vương vấn. Mái tóc dài kia đã bay tới ngang đâu? Đá Bạc? Đèo Phước Tượng? Cầu Hai? Xe leo lên Hải Vân với biển gào dưới núi?
Lơ mơ tôi nghe bước chân o rón rén vào chỗ nằm. Cách lắm vật cản trở nhưng với khoảng cách đó người nằm bên kia sẽ nghe rõ mồm một những gì thằng người nằm bên này ú ớ mê sảng. Tôi hỏi vọng qua, chương trình ngày mai của tụi mình sẽ như thế nào? Có vào Đại nội đè mấy cây trinh nguyên mà khắc ghi? Quỉ sứ. O pháo kích qua. Mình đâu có thể nhận biết tin tức của họ, hỉ? Chẳng rõ họ vào Đà Nẵng có bình an không?
Tôi đổi thế nằm, đâu mặt qua bên kia biên giới. Bây giờ giống như thể đường một chiều, tin nhắn chỉ phát ra từ đây thôi. Ai cũng tìm cách đi vào chứ có ai mà đi lộn lui. Khoảng yên lặng phủ chụp xuống, ngay cả ngọn đèn vàng sáng loá giữa phòng cũng đang thao thức. Ngủ nghê gì được, vấn đề là tôi không biết o đang nằm với tư thế nào? O nhắm mắt hay mở rộng hai hàng mi? Tôi chép miệng, không hiểu sao đâm nhớ và thèm ăn bánh nậm kinh khủng! Bên kia có tiếng vật mình, trăn trở. Có nhớ câu hỏi “con yêu bánh nậm” là gì không? Nói bá vơ, nói tầm bậy tầm bạ chứ có thể bánh nậm nhằm ám chỉ cái vật ấy đó. Cái vật gì? Quỉ sứ, đừng giả bộ ngây thơ cụ. Không biết thì tự tra khảo lấy một mình đi.
Và rồi Huế chết. Chúng tôi thoi thóp trong nhà nên nhà không bị hôi của phá cho tan hoang. Cảnh vật thay đổi hoàn toàn như thể chúng tôi bạc tình ngoảnh mặt húp xong chén cháo lú. Huế lạ mặt và Huế thù hận, điều ấy kéo chúng tôi lại gần hơn, ôm ấp nhau để vơi bớt tuyệt vọng. Phượng ra hoa nhưng hoa nhường sắc đỏ cho cờ xí giăng mắc, phủ ngộp. Màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh của cách mạng vàmàu đỏ là màu có khả năng đốt cháy hết dưỡng khí. Người ta đâm kiệt quệ, người ta đâm nghi ngờ lẫn nhau và người ta bán đi những vật thiết thân quý giá kể cả đạo đức. Chúng tôi sống mỏi mòn từng ngày ngóng đợi tin tức vợ chồng anh chị của o gửi về nhưng bặt tăm.
Một đêm rằm, sau khi tắm gội xong, o bày trái cây hoa quả lên bàn thờ, pha trà rót nước lọc rồi đứng thành khẩn cúi đầu với tay khum ôm giữ ba cây nhang. O thìthầm o lâm râm o khấn nguyện rồi o vẫy tay biểu tôi đứng sát bên o. Tôi sẽ tái lập những động tác o đi tiên phuông, bắt chước đừng sai trật.
Biết hôm nay là ngày chi không? Ngày rằm. Ừ, chỉ đúng có phân nửa. Nửa kia là ngày sinh nhật tui. Tôi nuốt nước miếng, không có bánh nậm để ăn mừng hè? Thắp đuốc tìm không ra! O ngó sâu vào mắt tôi, mí mắt không máy động, như thể một kẻ đang theo học thuật thôi miên. Trước bàn thờ ông bà ấm áp hương đèn o nhón chân quàng tay vào cổ tôi để ghì giữ uỷ thác một nụ hôn. Mùi hoa sen thơm ngọt, thanh khiết thực ra phát xuất từ nụ hôn vĩnh cửu nọ. O ở gần đống bùn là tôi mà người o vẫn thanh cao, vẫn vẹn toàn một hương sắc.
Ưa ăn bánh nậm không? Một câu hỏi, chỉ vỏn vẹn năm chữ mà nó làm thay đổi được hai số phận. Chúng tôi làm tình trên chiếc giường có sẵn hai gối, dưới lưng trần chúng tôi là chiếc chiếu có nhuộm phẩm hình long phụng quấn quýt vây bọc chữ song hỷ. Chiếu cũ, đã nhạt màu nhưng chính o vừa bôi đỏ lại cái chữ trừu tượng đó. Đỏ, là màu cách mạng. Đỏ, cũng là màu máu trinh nguyên thoát ra từ một cửa mình chưa từng bị xâm phạm. Một đàng là dùng bạo lực để san bằng mọi rào cản hòng chiếm đoạt mục tiêu trong mù quáng. Một đàng là tự nguyện dâng hiến, sắt son một lòng tin yêu của tình nghĩa vợ chồng. Tôi dùng lưỡi liếm cạn những giọt nước mắt của o. Tôi không đủ tỉnh táo để truy nguyên nước mắt ứa ra do hoan lạc hay do một đớn đau chẳng thể bày tỏ. Vị mặn của giọt lệ kia gần tượng hình là hạt muối. Và chẳng phải vô cớ mà ông bà mình rêu rao: Gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau.
Tôi ôm o, hạnh phúc như đứa trắng tay ôm được rương bảo vật. Và cái ý nghĩ sẽ mọc lên trong đầu thằng người ấy là gì? Nếu không phải là nó sẽ dùng mọi biện pháp để bảo vệ thứ tài sản hiếm hoi kia. Chữ “tôi yêu em” sẽ chẳng có giá trị, bởi rơi vào trường hợp của tôi, bạn sẽ bất lực không biết dùng từ gì để diễn đạt. Ngày cũ, tôi có đọc báo Phổ Thông, trong mục tìm tòi thú vị, họ đăng tải: Theo sự bỏ công tra cứu của những nhà khoa học, cái kết quả đưa ra có thể gây mất lòng một số quý bà, đó là trung bình đàn ông họ sử dụng 7000 chữ trong một ngày, trong khi đàn bà thì lên tới 20.000 chữ.
Tôi thương o ở thêm cái khoản o rất mực ít nói. Hai đứa chúng tôi cọng lại, bình quân mỗi ngày nói khoảng 5000 chữ. Bạn phải nên chúc mừng chúng tôi, vô can không ưa ngồi lê đôi mách. Hay bạn lại mắng mỏ chúng tôi: Chế độ này chỉ có đảng viên hoặc bọn dư luận viên mới mang tật già mồm. Mẹ nó chứ, hai đứa bây biết đéo gì mà nói. Tập câm họng là hơn, con ạ! Cẩn tắc vô ưu.
Chúng tôi cẩn tắc. Chúng tôi rón rén. Chúng tôi dọ dẫm. Chúng tôi biết lễ độ. Chúng tôi tập ứng xử, tập thích nghi. Nhưng mà ưu phiền như mạng nhện bủa vây, không tha cho, không bỏ sót. Vợ chồng anh chị o do hồng phúc được định cư tại Mỹ. Họ có chụp ảnh gửi về nhưng tiếc là o bạc phận chẳng được ngắm lấy để xuýt xoa. Tôi viết thư hồi âm, dự định xả oá dùng hơn 7000 chữ để tả tình tả cảnh, để minh hoạ một tình huống, một cảnh sống, một trường hợp éo le. Tôi le lưỡi phong kín phong thư. Keo ngọt lơ lớ mà nhớ vị mặn giọt nước mắt ai. Thư mỏng tang đem ký gửi cho con rùa bưu điện. Tôi chỉ đủ sức mạnh để viết được 7 chữ ngay ngắn: Vợ tôi đã chết. Bị xe đụng.
Tôi lập trang thờ cho o, tươm tất. Phía sau, để trám bức vách rạn vỡ gạch vôi, tôi treo tấm bảng hiệu quán cà phê ngày cũ án che. Ngày ba bữa thắp nhang tôi đều thấy mạ mình đứng đó han hỏi chuyện trò tâm đắc cùng o. Hai người đàn bà tôi yêu thương nhất trần đời. Nhưng, họ sống ở cảnh giới khác, xa cách tôi. Đó là bi kịch. Dẫu càm ràm tới bảy triệu chữ, cũng còn thiếu khi khô hơi bể phổi đi than van, trần tình.
Hồ Đình Nghiêm
tác giả hồ đình nghiêm (bên trái) [1957- ]
+ cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Google image
------------------------------------------------------------
trích từ TRANG VHNT PHẠM CAO HOÀNG
-------------------------------------------------------------