Lưu Quang Vũ
[1948- 1988.]
17/04/ 1948 Phú Thọ/ Bắc Bộ -- 29/ 08/ 1988 Hải Dương/ Bắc Bộ
hưởng dương 40 tuổi
nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia
http://phanguyenartist.blogspot.com
(...)
“Trên mái nhà, cao vút rừng cây
Trên rừng cây, những đám mây xô giạt,
Trên ngày tháng, trên cả niềm cay đắng
Thơ tôi là mây trắng của đời tôi”.
Tác phẩm tiêu biểu
Thơ
Hương Cây
Thôn Chu Hưng
Qua sông Thương
Đêm hành quân
Gửi tới các anh
Những chuyến bay
Lá bưởi lá chanh
Trưa nay
Hơi ấm bàn tay
Ngã ba thị xã
Chuyện nhỏ bên sông
Ngày ấy
Phố huyện
Trên cầu Long Biên
Chiều
Máy nước đầu ngõ
Chưa bao giờ
Vườn trong phố
Tầng năm
Thức với quê hương
Những con đường
(1968 - in cùng Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa)
Mây Trắng Của Đời Tôi
Mây Trắng Của Đời Tôi
(1989)
Tiếng Việt
Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm
Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về
Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm
Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre.
Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya
Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng
Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê.
Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa
Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi
Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ
Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời.
“Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt...”
Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương
Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót
Ta như chim trong tiếng Việt như rừng.
Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói
Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ
Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa
(PTD biên tập: "như đất cày, như lụa")
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Óng tre ngà và mềm mại như tơ.
Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát
Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh
Như gió nước không thể nào nắm bắt
Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh.
Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy
Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn
Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối
Tiếng heo may gợi nhớ những con đường.
Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận
PTD biên tập"một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng"
PTD biên tập"một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng"
Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta
Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất
Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già.
Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng
Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi
Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán
Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời.
Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng
Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi
Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ.
Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ
Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay
Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay
Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt.
Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết
Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi
Như vị muối chung lòng biển mặn
Như dòng sông thương mến chảy muôn đời.
Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt
Ai người sau nói tiếp những lời yêu?
(Trong bản thảo của bài thơ, tác giả chú thích với hai câu thơ dẫn từ bài Nguồn gốc từ ngữ của Xuân Quỳnh:Câu thơ Xuân Quỳnh: “Tiếng yêu của những ngày xưa/Vượt qua năm tháng bây giờ đến ta.”)
Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển
Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya?
Ai ở phía bên kia cầm súng khác
Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.
Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn
Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá
Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình...
PTD biên tập“tiếng Việt ân tình..”
Đây là một bài thơ hiếm hoi của Lưu Quang Vũ được đăng báo trong những năm người ta từ chối thơ anh. Để đăng được trên báo Văn nghệ, nhà thơ Phạm Tiến Duật khi đó đã phải biên tập sửa ba chỗ như chú thích trong bài. Bản được công bố được coi là bản chính nên các tuyển thơ Lưu Quang Vũ về sau đều in theo bản này. Bản ở đây được chép căn cứ theo bản thảo viết tay gốc của tác giả và được công bố sau này.
1. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, NXB Hội nhà văn, 2010
2. Lưu Quang Vũ, thơ tình, NXB Văn học, 2002
3. Lưu Quang Vũ - thơ và đời, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999
4. Thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Giáo dục, 1985
Bầy Ong Trong Đêm Sâu
Bầy ong trong đêm sâu
Không đề (II)
Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên (I)
Anh đã mất chi anh đã được gì
Từ biệt
Anh chẳng còn gì nữa
Ngã tư tháng Chạp
Quán cà phê ngoại ô
Những tuổi thơ
Ghi vội một đêm 1972
Viết lại một bài thơ Hà Nội
Nửa đêm tới thành phố lạ gặp mưa
Viết cho em từ cửa biển
Không đề (III)
Hoa tầm xuân
Lá thu
Người con giai đến phòng em chiều thu
Gửi một người bạn gái
Quả dưa vàng
Lý thương nhau
Khúc hát
Mắt một mí
Có những lúc
Những chữ...
Tôi chẳng muốn kỷ niệm về tôi là một điệu hát buồn
Giấc mơ của anh hề
Giấc mộng đêm
Nơi tận cùng
Liên tưởng tháng hai
Những ngọn nến
Việt Nam ơi
Gửi...
Mấy đoạn thơ
Những ngày chưa có em
Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
Mưa dữ dội trên đường phố trên mái nhà...
Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên (II)
Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên (III)
Vẫn thơ tình viết về một người đàn bà không có tên (I)
Em (II)
(1993)
Gửi tới các anh
(1998)
Cuốn sách xếp lầm trang
Gọi đò
Mấy đoạn thơ về lửa
Nói với con cuối năm
Phủ Lý tháng hai
(2008)
Áo
Én
Bài hát trong một cuốn phim cũ
Bài thơ khó hiểu về em
Bây giờ
Cầu nguyện
Chia tay
Chiều
Chiều cuối
Di chúc tình yêu
Em (I)
Em - tình yêu những năm đau xót và hy vọng
Gửi Hiền mùa đông
Hải Phòng, mùa đông
Hồ sơ mùa hạ 1972
Hoa tigôn
Không
Khu nhà vắng trẻ con
Lại sắp hết năm rồi
Móng tay trên đá
Mùa xoài chín
Mặt trời trong nước lạnh
Một bài thơ
Nói với mình và các bạn
Những bạn khuân vác
Những vườn dâu đánh mất
Thư viết cho Quỳnh trên máy bay
Viết cho một câu chuyện cũ
Những bông hoa không chết
(2008)
Những bông hoa không chết
Những ngày hè cuối
Hai bài thơ xuân
Tháng 5
Không đề (IV)
Đáng lẽ
Lời cuối
Em (III)
Cho Quỳnh những ngày xa
Người báo hiệu
Sông Hồng
Sông Hồng - hồi ức của một nghĩa binh già
Sông Hồng - năm mẹ sinh em
Sông Hồng - lời từ giã của Trung đoàn Thủ đô
Năm 1954
Tuổi thơ
Những thành phố những xứ xa
Những chiếc lá rơi
Ngoại ô
Với triệu con người
Trước biển và gió
Quả đồi bên kia
Mùa xuân Matxcơva
Ngọn lửa đen
Dù có lãng quên
Phút em đến
Trong đêm
Hoa cẩm chướng trong mưa
Cơn bão
Những đứa trẻ buồn
Những gương mặt
Khâm Thiên
Tìm về
Những đám mây ban sớm
Tháng 5-1975
Những bông hoa không chết
Những ngày hè cuối
Hai bài thơ xuân
Tháng 5
Không đề (IV)
Đáng lẽ
Lời cuối
Em (III)
Cho Quỳnh những ngày xa
Người báo hiệu
Sông Hồng
Sông Hồng - hồi ức của một nghĩa binh già
Sông Hồng - năm mẹ sinh em
Sông Hồng - lời từ giã của Trung đoàn Thủ đô
Năm 1954
Tuổi thơ
Những thành phố những xứ xa
Những chiếc lá rơi
Ngoại ô
Với triệu con người
Trước biển và gió
Quả đồi bên kia
Mùa xuân Matxcơva
Ngọn lửa đen
Dù có lãng quên
Phút em đến
Trong đêm
Hoa cẩm chướng trong mưa
Cơn bão
Những đứa trẻ buồn
Những gương mặt
Khâm Thiên
Tìm về
Những đám mây ban sớm
Tháng 5-1975
(in chung cùng phần Nhật ký)/ nxb Lao Động, 2008
Kịch
1
Sống Mãi Tuổi 17
2
Nàng Sita
3
Hẹn Ngày Trở Lại
4
Nếu Anh Không Đốt Lửa
5
Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt
Kịch bản
https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2013/05/hontruongbadahangthit-kich-luuquangvu.pdf
6
Lời Thề Thứ 9
7
Khoảnh Khắc và Vô Tận
8
Bệnh Sĩ
9
Tôi Và Chúng Ta
10
Người Tốt Nhà Số 5
11
Chiếc Ô Công Lý
12
Ông Không Phải Là Bố Tôi
13
Lời Nói Dối Cuối Cùng
14
Mùa Hạ Cuối Cùng
Tiểu luận, phê bình:
(cùng viết với Vương Trí Nhàn và Xuân Quỳnh)
Truyện
Người Kép Đóng Hổ
tập truyện ngắn/ nxb Hà Nội
Người kép đóng hổ
Tích Võ Tòng phải ngừng diễn đã hai tháng nay. Anh kép đóng hổ tự dưng bỏ gánh bỏ rạp đi đâu mất. Có người bảo anh đã bỏ Hà Nội và Sài Gòn, làm kép võ cho một gánh hát trong đó. Có người lại bảo anh ta mê con gái một ông đốc tờ ở phố Cầu Gỗ. Cha mẹ cô này ngăn cấm, nói không gả con cho phường kép hát. Hai người liền rủ nhau trốn xuống Phòng, rồi ra tận Hòn Gai, Cẩm Phả gì đó... Vai hổ của anh không phải vai chính, vậy mà khó, chẳng tìm ra người thay. Ông bầu cũng đã cho một vài kép khác diễn thử, nhưng không ra làm sao cả, hổ không ra hổ, chó không ra chó, cứ ục ịch, lóng ngóng, hoặc là chồm chồm nhảy nhót, rõ ra hổ giả, mặc dù các đầu và bộ da hổ đều là đầu thật, da thật, ông bầu đã phải mua lại của một người Nùng ở Lạng Sơn xuống.
Không có hổ, Võ Tòng cũng thành thất nghiệp. Anh kép đóng Võ Tòng - xưa nay vẫn được khán giả hâm mộ nhất trong vai này - giờ chuyển sang chỉ đóng Triệu Tử Long phò Lưu Bị, Mã Siêu báo phụ thù, hoặc cái vai Tống Địch Thanh, Ngũ Tử Tư... Cũng hay, nhưng không thể so được với vai Võ Tòng của anh. Hôm nào khán giả cũng hỏi người bán vé:
- Hôm nay có diễn Võ Tòng không? Chà, chán thật! Diễn Võ Tòng đi chứ, gánh này có tích đấy là hay nhất.
Nhưng nếu diễn, với mấy vai hổ mới thay, thì cứ đến đoạn hổ ra, vừa múa được vài đường, là khán giả đã ồ lên la ó, có người kêu to:
- Hổ làm sao thế? Hổ cũ đi đâu rồi?
Nhiều người đứng dậy bỏ về. Có ông khó tính còn đòi lấy lại tiền.
Ông bầu đang bí, chưa biết tính sao. Bỗng một hôm, có một người đàn ông bước vào gian buồng trên gác rạp hát, nơi ở của ông bầu. Người ấy trông khó đoán tuổi, gày gò, xanh xao. Hình dáng mảnh dẻ, nhưng rắn rỏi. Mắt trũng sâu, lầm lì, sáng lạnh. Miệng mím chặt. Thái dương anh ta có một vết sẹo lớn, trông như móng sắt cào. Người lạ mặc quần nâu, áo đen, đi đôi giày vải, kiểu giày của những người khách bán thuốc và múa võ.
- Anh cần gì? - Ông bầu hỏi.
- Có phải rạp đang cần một người đóng hổ?
- Đúng thế.
- Tôi đóng được.
- Anh???
- Vâng, tôi.
- Anh là kép hát?
- Không. Nhưng tôi đóng được vai hổ.
- Anh hay xem hát?
- Ít thôi, nhưng tôi thích.
- Anh biết đóng hổ thế nào không?
- Biết. Tôi đã từng bị hổ vồ.
- Thật ư?
- Không tin, ông cứ nhìn vết sẹo trên trán tôi đây, cả tay, cả lưng nữa.
- Anh làm sao mà thoát được?
- Tôi đánh lại nó. Chính con hổ cũng bị thương. Sau tôi leo lên một cái cây gần đó! Con hổ ngồi dưới đợi. Suốt ba ngày đêm, con hổ cứ gầm gừ gào thét ở dưới, còn tôi thì ôm chặt lấy cành cây. Nó liếm máu tôi chảy xuống ướt đẫm vạt cỏ, nhưng rồi vẫn đói quá, cuối cùng nó phải bỏ đi. Suốt ba ngày đêm, tôi đã nhìn trừng trừng mọi động tác dáng vẻ của hổ. Bây giờ tôi vẫn nhớ như in. Ông xem, tóc tôi lốm đốm bạc là vì ba ngày đêm đó.
- Lạ thật - Ông bầu nhìn kỹ người khách lạ - anh không có vẻ gì là bịa đặt cả. Nhưng này, anhđi đâu mà gặp hổ, anh làm nghề gì? Quê quán ở đâu?
- Tôi gặp hổ và bị nó vồ ở một thung lũng gần biên giới Lào. Tôi làm nhiều nghề, đi nhiều nơi. Đời tôi vất vả. Ông cho phép tôi khỏi phải kể lại. Hiện giờ tôi mới về Hà Nội và đang thất nghiệp. Tôi không có nhà cửa, vợ con gì cả. Đã hai ngày nay tôi nhịn đói. Tôi ngồi trú mưa ở cửa rạp, nghe người ta nói với nhau rằng gánh hát đang khuyết một vai đóng hổ.
- Nhưng anh có biết rằng đóng vai hổ trên sân khấu không phải là bắt chước y như con hổ thật mà được.
- Tôi biết.
- Phải diễn bằng múa, diễn với nhạc, với trống. Sao cho giống thật mà lại hay, lại đẹp. Khán giả khó tính lắm. Không phải kép nào cũng đóng vai này được đâu.
- Tôi hiểu. Tôi đã cân nhắc. Tôi sẽ tập dượt thêm, nhưng chắc sẽ làm được.
- Tạm thời, tôi cứ tin anh. Sáng mai, anh sẽ diễn thử cho tôi xem. Bây giờ anh sẽ ăn cơm. Rồi anh kép đóng Võ Tòng sẽ đưa cho anh cái lốt hổ và sẽ tập với anh. Nếu quả thật anh diễn được, tôi sẽ nhận anh vào gánh.
Suốt ngày và cho đến tận nửa đêm hôm ấy, người khách lạ tập với anh kép đóng Võ Tòng trên căn gác sau rạp hát. Anh tập lầm lỳ, không nghỉ, không nói năng, chỉ im lặng nhìn và nghe Võ Tòng chỉ dẫn. Đã nhiều lần Võ Tòng gặng hỏi về tông tích anh ta, thử bắt chuyện, nhưng anh ta không hé răng. Anh học thuộc mọi động tác của những vai hổ cũ, nhưng lại diễn theo lối của anh với những động tác mới rất lạ, nhưng rất hay. Võ Tòng chưa từng thấy ai đóng hổ như vậy cả. Một con hổ dữ tợn, hung ác, có sức mạnh khủng khiếp, cái sức mạnh âm u, hoang rợ của rừng sâu, cái sức mạnh bản năng điên dại của những bắp thịt, những móng vuốt và răng nhọn. Cái sức mạnh ấy đã bị Võ Tòng quật ngã. Con hổ thèm khát máu tươi, từng ăn thịt bao người, gần như đã thành tinh, phải gục xuống trước Võ Tòng. Những cái thu mình rồi lao vút ra như tên bắn. Những bước chân chờn vờn, chắc khỏe. Thân hình ngàn cân của hổ vừa nặng nề, vừa thoăn thoắt giảo hoạt. Đầu lắc lư, mình run lên bần bật vì giận dữ, con hổ gầm lên những tiếng gầm man rợ, quái đản, như có mùi máu tanh rùng rợn bốc lên. Người khách lạ diễn theo nhịp trống đổ dồn vừa như thực vừa như múa. Động tác nào cũng đẹp, cũng ghê gớm, người xem phải nín thở hồi hộp, lo sợ, để rồi càng thấy sự tài giỏi, can đảm của Võ Tòng.
Dường như nỗi căng thẳng của ba ngày đêm ôm chặt trên cây, đối diện với hổ, dường như kinh nghiệm của cả cuộc đời phiêu bạt, đói khổ, phải đối chọi, giành giật với nhiều kẻ ác, người khách lạ đã dồn cả vào lớp diễn này.
Ông bầu gánh từ kinh ngạc chuyển sang mừng rỡ, vừa xem xong, ông vội cho người dán quảng cáo, gõ chiêng trống vang cửa rạp, bán vé diễn tích Võ Tòng đả hổ ngay tối đó.
Khán giả kéo đến chật rạp, tích Võ Tòng chưa bao giờ thành công rầm rộ như vậy.
Người khách lạ trở thành anh kép chính thức của đoàn, mặc dù ngoài vai hổ, anh không đóng vai nào khác. Không ai biết tên thật của anh là gì, chỉ gọi là anh Hổ. Anh Hổ suốt ngày lầm lì, không mấy khi chuyện trò với ai. Anh vẫn mặc cái quần nâu, áo đen và đi đôi giày vải như hôm đến rạp. Người ta đồn đại nhiều quanh tung tích của anh, có người bảo anh bị mẹ mìn bắt đưa sang Lào từ nhỏ, những phường săn bên đó đem nhốt anh vào lồng sắt, đặt ở rừng làm mồi nhử cọp. Có người bảo anh bị đẩy lên mạn ngược vì đã chém chết một viên đội xếp Tây, anh trốn tù, sống nay đây mai đó, bây giờ vẫn phải giấu mặt... Không hiểu có đúng vậy không, chỉ biết anh không vợ con, k hông quê quán, tên tuổi cũng chẳng rõ, suốt ngày ngồi im một chỗ. Anh diễn khá như vậy, ông bầu chỉ giả một số lương vô cùng ít ỏi, anh cũng chẳng hề phàn nàn.
Tỏ ra gần gũi quý mến anh Hổ hơn cả, là anh kép đóng vai Võ Tòng. Võ Tòng thường hay mua thuốc lá cho anh Hổ, anh ta nghiện thuốc nặng. Hai người ngồi cạnh nhau hàng buổi, tuy chẳng nói gì. Những lúc đó, mắt anh Hổ dịu hẳn lại, mặt anh hiền hậu, những nếp răn quanh vết sẹo như mờ đi, khóe miệng mím chặt thoáng mỉm cười. Lên sân khấu, họ lại lăn xả vào nhau, giao đấu dữ dội liền mấy hiệp. Ít người kép hát nào gắn bó với vai diễn của mình như anh Hổ. Có lần, anh nói với anh Võ Tòng:
- Tôi đóng hổ, không phải tại tôi thích hổ, mà tại tôi thích Võ Tòng. Tôi thích con người áo vải tay không mà dám đập chết loài beo cọp. Đời tôi nhiều uất ức cay cực lắm. Vợ con tôi, chúng nó giết chết cả, cái lũ người ấ còn ác hơn cả hùm beo...
Nói đến đây, anh lại nín bặt, không kể tiếp nữa. Dạo ấy trời rét như cắt. Ngoài phố mưa phùn nhớp nháp, lạnh buốt. Những mái nhà tối đen, nhấp nhô dưới ánh đèn vàng quạch. Đó là mùa đông năm 1944. Đêm đêm, hiến binh Nhật đi tuần rầm rập trên đường. Tiếng gươm súng va lách cách, tiếng hô thét rợn người.
Anh Hổ không có chăn màn, giường đệm gì cả. Diễn xong, anh Võ Tòng kéo cái phông hậu xuống đắp, nằm ngủ ngay ở cánh gà sân khấu, và anh Hổ thì ngồi vào cái ghế sơn đỏ vẫn thường dùng làm ngai vua. Anh để nguyên cả lốt hổ, đầu vẫn ở trong cái đầu hổ, ngồi ngủ. Áo anh phong phanh, cái lốt hổ dầy giúp anh chịu được rét buốt của đêm dài.
Một đêm vào khoảng 2, 3 giờ sáng, có tiếng quát tháo ồn ào. Một tốp hiến binh Nhật xộc vào rạp hát. Dạo đó chúng hay đi lùng sục khám xét. Anh Võ Tòng choàng dậy, đã thấy bốn năm tên Nhật xông lên sân khấu. Chúng đều đi ủng, đội mũ dạ, đeo kiếm dài. Một thằng quát:
- Những ai ở đây, ra mau!
Bỗng tên Nhật hốt hoảng lùi lại, ú ớ kêu: dưới ánh sáng lờ mờ, một con hổ, không, một con quái vật đi hai chân như người loạng choạng bước ra. Tên Nhật kinh hãi rút kiếm ra. Võ Tòng chưa kịp xông lại ngăn thì tên Nhật đã vung kiếm chém mạnh vào cổ con hổ. Lưỡi kiếm sắc như nước, chỉ nghe phập một tiếng, cái đầu hổ đã rơi phịch xuống sàn sân khấu. Mấy cái đèn pin chiếu vào, máu phun ra từ đầu hổ. Võ Tòng rú lên, lao tới, ôm chầm lấy bạn. Đầu anh Hổ đã bị chém rời ra cùng cái đầu hổ. Cái thân còn quờ quạng vài giây rồi bất động.
Anh Hổ đã bị giết chết trong vai diễn của mình.
*
* *
* *
Hôm sau, ngày đưa đám anh Hổ, trời vẫn mưa phùn mù mịt.
Người ta nhấc đầu anh ra khỏi đầu hổ thật, máu anh đầm đìa cả da hổ. Chân tay anh co quắp lại, không thể nào cởi bộ lốt da hổ ra khỏi mình anh, trừ khi cắt nát lốt da hổ ra. Gánh hát đành phải đặt anh vào quan tài nguyên như vậy. Lốt hổ của vai diễn trở thành vải liệm của anh.
*
**
**
Câu chuyện này do một chiến sĩ của trung đoàn Thủ đô kể lại cho tôi. Anh đã nghe chính anh kép đóng Võ Tòng kể cho anh và trung đội của anh, trong một chiến lũy đầu phố Hàng Gai. Năm 1946, Võ Tòng đã trở thành một chiến sĩ quyết tử của trung đoàn Thủ đô. Anh chiến đấu can đảm đến liều lĩnh. Anh bạn tôi kể: trong một trận đánh ở cổng sau chợ Bắc Qua, Võ Tòng đã dùng mã tấu quần nhau với bốn thằng Lê dương cao lớn và đã chém gục chúng. ./.
Lưu Quang Vũ
1983
Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh và mùa hè định mệnh
Lưu Quang Định
(em ruột Lưu Quang Vũ)
Mùa hè năm 1988 là mùa hè cuối cùng của Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh. Đó là khoảng thời gian mà Lưu Quang Vũ làm việc hối hả, với năng suất phi thường, làm việc như biết mình sắp bị giời bắt đi. Đó cũng là mùa hè Xuân Quỳnh phải nằm viện, trái tim nhỏ bé của chị nặng trĩu những dự cảm ưu phiền... Chúng tôi xin giới thiệu những chi tiết chưa nhiều người biết về những ngày cuối cùng của anh chị. Bài viết do nhà báo Lưu Quang Định, em ruột của Lưu Quang Vũ gửi riêng cho VietNamNet.
Chỉ trong vòng 8 năm kể từ khi bước vào sân khấu - năm 1980 với vở "Sống mãi tuổi 17" - cho đến khi nằm xuống, Lưu Quang Vũ đã viết hơn 50 vở kịch, hầu hết đã được dàn dựng. Đó là còn chưa kể hàng trăm bài thơ, truyện ngắn, bài báo... Người ta vẫn thường hỏi Lưu Quang Vũ lấy đâu ra thời gian, năng lượng để hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ như vậy trong một thời gian ngắn như vậy? Ngay cả bạn bè, đồng nghiệp, ngay cả những người thân trong gia đình nhiều lúc cũng không trả lời nổi câu hỏi đó.
Đặc biệt, trong năm cuối cùng, mùa hè cuối cùng của đời mình, Lưu Quang Vũ làm việc hối hả hơn bao giờ hết. Sau khi Lưu Quang Vũ mất, trên bàn làm việc của anh vẫn còn để một mảnh giấy nhỏ, trong đó anh ghi: "Công việc phải làm từ tháng 8 tới tháng 12 (1988)", với tên 8 vở kịch, một tập thơ cùng một số công việc khác. Cho đến khi mất, nghĩa là chỉ trong vòng một tháng kể từ khi viết mảnh giấy, anh đã kịp thực hiện và đưa lên sàn diễn trọn vẹn 3 vở: Trái tim trong trắng (đoàn Kịch Hải Phòng và Đoàn Chèo Hà nam Ninh dựng), Lời thề thứ chín (Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị dựng 1988), Điều không thể mất (Nhà hát Tuổi trẻ, Đoàn Kịch Quân khu II dựng 1988). Vở thứ tư -Chim sâm cầm không chết - đã viết xong cảnh cuối, Đoàn kịch Hải Phòng đã nhận dàn dựng. Và nếu như không ra đi đột ngột thì rất có thể Lưu Quang Vũ đã có cơ hội "hoàn thành kế hoạch năm", viết nốt 4 vở còn lại: Bồ câu biển, Trà hoa nữ, Thủ tục làm người sống... Cũng trong năm 1988, ngoài mấy vở trên, anh còn viết một loạt vở nữa như Đôi đũa kim giao (Đoàn ca múa Hà Nam Ninh dựng), Ông không phải bố tôi (có 4 đoàn dựng), Linh hồn của đá (Đoàn Chèo Hải Phòng dựng),Bệnh sĩ (Nhà hát kịch Trung ương dựng)...
Mùa hè năm đó tôi mới 22 tuổi, đang là sinh viên năm thứ hai ở Liên xô cũ, được về phép. Sau mấy năm xa nhà, thấy HN có một số thay đổi: Chế độ tem phiếu đã bị bãi bỏ. Đồ đạc có vẻ nhiều hơn, nhưng điện vẫn thường xuyên mất, cuộc sống nhìn chung vẫn rất vất vả. Gia đình tôi sống trong một căn phòng ở gác hai số nhà 96 phố Huế. Anh Vũ, chị Quỳnh, Kít (Lưu Minh Vũ) và Mí (Lưu Quỳnh Thơ) sống trên tầng ba, trong một căn phòng rộng 6,5 mét vuông. Suốt mùa hè đó, thường thường tôi chỉ gặp Lưu Quang Vũ lúc sáng sớm, hoặc lúc 1,2 giờ sáng. Còn cả ngày anh đi vắng suốt. Lịch làm việc của anh bao giờ cũng dày đặc. Có ngày sáng anh lên Hà Bắc dựng kịch, chiều về Nhà hát kịch đọc vở mới với đạo diễn, tối lại đi Hà Tây xem duyệt vở. Có khi nửa đêm về đến nhà, anh uống vội cốc cà phê rồi lại ngồi vào bàn viết. Nhiều lúc chị Quỳnh bảo với mẹ tôi: "Mẹ phải can anh Vũ giúp con, anh ấy làm việc chẳng kể gì đến sức khoẻ cả." Mẹ tôi cũng thường nói với anh "con làm gì cũng phải giữ lấy sức khoẻ". Những lúc đó, anh thường bảo: "Con cũng biết thế nhưng mình cố một chút thì đoàn có vở dựng, mấy chục con người có công ăn việc làm..." Anh Vũ là người rất mê bóng đá nhưng giải EURO năm đó tôi thấy hầu như anh không còn thời gian để xem. Chị Quỳnh cũng "miễn" mọi việc nhà cho anh, không phải xuống tầng 1 xếp hàng xách nước lên tầng 3. Hồi đó nước sinh hoạt ở HN là một vấn đề rất cơ cực.
Nhà tôi mùa hè đó lúc nào cũng có một vài ông khách - là người của các đoàn - đến "đòi" kịch bản. Mới bảnh mắt, vừa mở cửa ra đánh răng, rửa mặt đã thấy có người đứng đợi. Có người ý tứ, anh Vũ vắng nhà thì đứng ngoài cầu thang chờ. Nhưng cũng có người cứ ngồi lì trong nhà, uống hết tuần chè này sang tuần khác, đốt thuốc khói um nhà. Dường như họ nghĩ làm vậy thì gia đình Lưu Quang Vũ sẽ sốt ruột, anh sẽ chóng phải về hơn. Nhiều hôm thương anh, chúng tôi buộc phải nói dối là anh đi vắng. Khách vẫn kiên nhẫn đứng chờ bên ngoài. Anh Vũ khoá trái cửa, ngồi trong nhà viết, muốn ho cũng không dám ho. Có ông khách đứng nấp ở cầu thang. Một lúc thấy anh Vũ lò dò ra bèn reo toáng lên, xồ tới như bắt được thằng kẻ trộm.
Các đoàn đều săn đón vở của anh. Mà tính anh Vũ thì lại cả nể, với ai cũng hứa. Hứa rồi bận quá không thực hiện được lời hứa. Khi người ta đến lại phải lỡ hẹn, hoặc phải nói dối. Có người bị anh hẹn đi hẹn lại ba bốn lần. Thành ra anh bị mang tiếng là hay nói dối. Thực ra thì anh không định nói dối mà chỉ do quá bận bịu. Có người - như đạo diễn NSND Phạm Thị Thành - thì thông cảm và gọi đó là "kiểu nói dối đáng yêu". Nhưng có người - như cố đạo diễn NSND Nguyễn Đình Nghi - nhiều lúc phát cáu lên, nói với chị Quỳnh: "Hay là Vũ không muốn làm việc với tôi nữa thì cứ nói thẳng ra. Việc gì cứ phải lỡ hẹn như vậy?!..." Chị Quỳnh lại phải xin lỗi, giải thích mãi.
Anh Vũ thì bận túi bụi như vậy, còn chị Quỳnh mùa hè năm đó sức khoẻ giảm sút rất nhiều. Tháng 3 năm 1988 chị được cử tham gia Ban Giám khảo Liên hoan phim toàn quốc ở Nha Trang. Trên đường đi, chiếc xe chở cả đoàn đang qua cầu bỗng bị lật. Trong tấm ảnh ghi lại vụ tai nạn đó, chiếc xe khách nằm 1/3 trên thành cầu, còn 2/3 lửng lơ trong khoảng không. Thật hú vía! Rồi đến tháng năm, chị thường thấy khó thở, thỉnh thoảng ngực trái lại dội lên những cơn đau rất lạ. Vào viện khám, bác sĩ bảo tim chị có vấn đề. Xuân Quỳnh phải nằm viện hai tháng trời. Khi tôi về phép thì chị đã ra viện, nhưng sắc mặt kém đi nhiều so với một năm trước đó, khi tôi gặp chị ở Matxcova trong đoàn nhà văn VN sang học tại Trường viết văn Gorki. Tính chị vẫn vui, vẫn hay đùa, nhưng nhiều lúc trong câu chuyện thấy ánh mắt chị thảng thốt, như nhìn vào đâu đâu. Xuân Quỳnh đã từng có hẳn một bài thơ viết về trái tim, bài Tự hát: "Chẳng dại gì em ước nó bằng vàng/Trái tim em anh đã từng biết đấy/Anh là người coi thường của cải/Nên nếu cần anh bán nó đi ngay... Em trở về đúng nghĩa trái tim em/Là máu thịt đời thường ai chẳng có/Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa/Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi...." Oái ăm thay, trái tim chan chứa tình yêu thương đó giờ lại đang đau. Chị Quỳnh làm dâu trong nhà tôi đã mười lăm năm, thật sự cả mấy anh em chúng tôi đều coi chị như chị ruột. Chúng tôi vẫn nhớ ngày anh chị mới về với nhau, tài sản giá trị nhất chỉ là chiếc phích nhỏ. Những ngày hè nóng cháy, chị đi giặt ở cái máy nước công cộng ngoài phố Trần Nhân Tông về, cái chậu quần áo to tướng vẹo một bên người. Những ngày Tết chị ngồi gói bánh chưng. Thời cấp ba chị đèo tôi lên nhà thầy Trần Nhật Minh xin học thêm môn văn... Vậy mà giờ đây, khi anh Vũ bắt đầu ổn định thì chị lại đau yếu. Chắc để cho không khí trong nhà đỡ nặng nề, mọi người lúc đó thường tránh nói về bệnh tật của chị. Vì vậy tôi cũng không biết bệnh chị nghiêm trọng đến mức nào. Mãi về sau này, mẹ tôi mới kể là lúc đó, anh Vũ đã nói với bà: "Bác sĩ bảo bệnh tim của Quỳnh rất nặng. Nếu chăm sóc tốt thì cũng chỉ sống được vài ba năm nữa thôi, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi đặc biệt"...
Về con cái của anh chị, năm đó cũng đã lớn khôn nhiều. Tuấn Anh - con riêng chị Quỳnh - đã tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ, xin được vào làm ở Thông tấn xã. Kít đang học Sân khấu Điện ảnh. Đặc biệt lớn là Mí. Nó không còn bầu bĩnh, để tóc dài giống con gái như hồi nhỏ, mà cao vổng lên, chân tay lòng khòng, lại đang vỡ giọng. Nhưng Mí vẫn rất ngoan và học giỏi. Chị Quỳnh thường khoe nó rất tiết kiệm, bố cho tiền ăn phở sáng thì cu cậu chỉ ăn xôi. Mí chăm làm việc nhà, ngày nào cũng xách nước, nấu cơm giúp mẹ. Lúc rảnh thì mua vé rủ bà nội đi xem phim. Nó vẫn chơi guitare rất hay, vẽ và viết truyện ngắn đều, thỉnh thoảng lại thấy được đăng báo. Tôi đặc biệt ấn tượng với một bức tranh của Mí, vẽ một lọ hoa màu tím, đến giờ vẫn treo trên tường nhà tôi. Ấn tượng bởi đó là một bức tranh rất buồn và già dặn, như không phải là của một cậu bé 13 tuổi.
Cũng mùa hè năm đó, anh Vũ chị Quỳnh có một tin vui : Được Hội Nhà văn phân nhà, một căn hộ hai phòng trên tầng ba khu tập thể Ngọc Khánh. Tôi đã một lần đạp xe đèo chị Quỳnh lên xem nhà. Đi đường Kim Mã, rồi rẽ trái. Hồi đó chưa có đường Liễu Giai, phải dắt xe đạp vượt qua những đống đất đá lổn nhổn mới tới khu tập thể. Chị Quỳnh tấm tắc: "Rộng quá, ở thế nào cho hết!" Thực ra diện tích nhà tổng cộng chỉ hơn 40 mét vuông thôi , nhưng so với cái chuồng cu 6 mét mà anh chị đang ở thì quả là rộng thật. Rồi chị tính chỗ này kê giường, chỗ kia kê tủ. Suốt bao nhiêu năm, chưa bao giờ anh Vũ chị Quỳnh có giường bởi vì nhà quá chật, không đủ chỗ kê. Chỉ tiếc là chưa kịp dọn về căn hộ mới, chưa kịp nằm trên chiếc giường mơ ước ấy, anh chị đã ra đi...
Thấm thoắt thế mà đã sắp hết hè. Tôi nhớ cái tuần cuối cùng trước ngày tôi trả phép, cùng lúc có hai vở kịch của anh Vũ chuẩn bị công diễn. Vở đầu là Bệnh sĩ, một hài kịch cười ôm bụng từ đầu đến cuối. Vở thứ hai là Lời thề thứ chín, đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị dựng. Hôm chạy suốt vở này lần đầu, anh Vũ chở tôi vào Mai Dịch xem. Hai anh em đi trên chiếc xe Peugeot 103 màu đỏ, anh Vũ vừa mua cách đó mấy hôm. Dọc đường đi, anh nói chuyện với tôi rất nhiều, về Mí, về sức khoẻ chị Quỳnh, về những chuyện tức cười hồi anh đi Liên xô. Anh bảo: "Định và Bi (thằng em út nhà tôi) ở bên đó cứ yên tâm học cho thật giỏi, ở nhà mẹ đã có anh Vũ chị Quỳnh lo chu đáo. Năng viết thư cho mẹ đỡ mong. Khi nào Định cần gì bảo anh Vũ sẽ mua gửi sang..." Tôi kém anh Vũ tới mười tám tuổi. Vừa học xong phổ thông thì tôi đi xa, nên ngoài lúc thư từ, chẳng mấy khi anh nói chuyện với tôi như với một người lớn thế này. Rồi một cơn mưa rào xối xả ập đến. Anh Vũ lấy trong xắc ra một tấm nylon nhựa choàng cho cả hai anh em rồi lại phóng đi. Vào đến Mai Dịch thì ướt lướt thướt hết cả...
Ngày 23/8, mẹ tôi cùng mấy cụ trong tổ hưu đi Sài Gòn chơi. Từ sáng sớm anh Vũ đã xuống chào mẹ và nói: "Hôm nay con bận đi làm việc nên không tiễn mẹ được. Khi nào mẹ ra con sẽ đi đón." Miệng nói như vậy, tay anh cầm bút viết lên cuốn lịch treo tường dòng chữ: 8/9 mẹ ra, có mặt" Ngày 25/8, tôi bay trở lại nước Nga. Hôm đó anh Vũ cũng đi vắng đâu. Xe sắp chuyển bánh lên Nội Bài thì chị Quỳnh và Mí chạy về. Tôi đã ngồi trong xe, chị Quỳnh đứng ngoài nắm lấy tay tôi, cười: "Hôm nào anh chị đi Liên xô, Định lại dẫn ra chụp ảnh ở Quảng trường Đờ nhé..." Có ngờ đâu đó là những lời cuối cùng chị Quỳnh nói với tôi.
Ngày 27/8, anh Vũ và hoạ sĩ Doãn Châu xuống làm việc với đoàn kịch Hải Phòng, đưa cả chị Quỳnh, Mí và gia đình anh Doãn Châu đi cùng, tranh thủ kết hợp cho trẻ con tắm biển Đồ Sơn trước khi bước vào năm học mới. Chiều 29/8 trở về, vừa qua đầu cầu Phú Lương thì tai nạn xảy ra.
Ba ngày sau, tôi mới biết tin. Hôm đó tôi sang trường Bưu điện chơi. Vừa vào phòng một anh bạn nghiên cứu sinh thì thấy mắt anh đẫm nước, rồi bảo: "Xin chia buồn với Định". Tôi ngớ người chẳng hiểu gì cả. Anh đưa cho tôi tờ báo Nhân dân, ở trang 8 có một ô nhỏ đóng khung bắt đầu bằng hai chữ : Tin buồn...
Đã 15 năm trôi qua. Có thể thời gian đã mài mòn bớt những sắc cạnh so với ban đầu, nhưng nỗi đau thì vẫn là nỗi đau. Anh Vũ có một vở kịch tên là "Mùa hạ cuối cùng", một vở rất nhiều chất thơ, do Nhà hát Tuổi trẻ dựng. Chí Trung, Đức Hải, Lan Hương, Minh Hằng... lúc đó đóng vai các cô cậu học sinh lớp 10, đều trẻ măng. Đã bao nhiêu năm, tôi vẫn nhớ vở kịch đó. Cũng như tôi không thể nào quên được cái "mùa hạ cuối cùng" đó. Không phải là người mê tín nhưng tôi thấy dường như có cái gì như là định mệnh. Anh Vũ đã làm việc ngày đêm hối hả, như biết rằng mình sắp bị giời bắt đi. Còn chị Quỳnh thì trái tim trĩu nặng bao nhiêu lo lắng. Chỉ có một điều an ủi duy nhất là ngay cả cái chết, cái chết định mệnh, phũ phàng cũng không thể chia lìa anh chị.
Lưu Quang Định
9.2003
Hai bài thơ cuối cùng Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh viết trong mùa hè năm 1988:
Thư viết cho Quỳnh trên máy bay
(Lưu Quang Vũ)
Có phải vì mười lăm năm yêu anh
Trái tim em đã mệt?
Cô gái bướng bỉnh
Cô gái hay cười ngày xưa
Mẹ của các con anh
Một tháng nay nằm viện
Chiếc giường trắng, vách tường cũng trắng
Một mình em với giấc ngủ chập chọn
Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn
Trái tim lỡ yêu người trai phiêu bạt
Luôn mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật
Vẫn là gã trai nông nổi của em
Người chồng đoảng của em
15 mùa hè chói lọi, 15 mùa đông dài
Người yêu ơi
Có nhịp tim nào buồn khổ vì anh?
Thôi đừng buồn nữa, đừng lo phiền
Rồi em sẽ khoẻ lên
Em phải khoẻ lên
Bởi ta còn rất nhiều dặm đường phải đi
Nhiều việc phải làm nhiều biển xa phải tới
Mùa hè náo động dưới kia
Tiếng ve trong vườn nắng
Và sau đê sông Hồng nước lớn
Đờ phập phồng như một trái tim đau
Từ nơi xa anh vội về với em
Chiếc máy bay dọc sông Hồng
Hà Nội sau những đám mây
Anh dõi tìm: đâu giữa chấm xanh nào
Có căn phòng bệnh viện nơi em ở?
Trái tim anh trong ngực em rồi đó
Hãy giữ gìn cho anh
Đêm hãy mơ những giấc mớ lành
Ngày yên tĩnh như anh luôn ở cạnh
Ta chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất
Vở kịch lớn, bài thơ hay nhất
Dành cho em, chưa kịp viết tặng em
Tấm màn nhung đỏ thắm
Mới bắt đầu kéo lên
Những ngọn nến lung linh quanh giá nhạc
Bao nỗi khổ niềm yêu thành tiếng hát
Trái tim hãy vì anh mà khoẻ mạnh
Trái tim của mùa hè, tổ ấm chở che anh...
7/5/1988
Thời gian trắng
(Xuân Quỳnh)
Cửa bệnh viện, ngoài kia là quá khứ
Những vui buồn khao khát đã từng qua
Nào chỉ đâu những chuyện ngày thơ
Con đường gạch ao bèo hoa tím ngát
Những ô ăn quan, que chuyền, bài hát
Những mùa hè chân đất, tóc râu ngô
Quá khứ em không chỉ ngày xưa
Mà ngay cả hôm nay là quá khứ
Quá khứ của em ngoài cánh cửa
Gương mặt anh, gương mặt các con yêu...
Em ở đây không sớm không chiều
Thời gian trắng, không gian toàn màu trắng
Trái tim buồn sau lần áo mỏng
Từng đập vì anh vì những trang thơ
Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ
Chỉ có đập cho em mình em đau đớn
Trái tim này chẳng còn có ích
Cho anh yêu, cho công việc, bạn bè
Khi cuộc đời trôi chảy ngoài kia
Thời gian trắng vẫn ngừng trong bệnh viện
Chăn màn trắng, nỗi lo và cái chết
Ngày với đêm có phân biệt gì đâu
Gương mặt người nhợt nhạt như nhau
Và quần áo một màu xanh ố cũ
Người ta khuyên "lúc này đừng suy nghĩ
Mà cũng đừng xúc động, lo âu"
Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu
Dường trong suốt một màu vô tận trắng
Muốn gánh đỡ cho em phần mệt nhọc
Tới thăm em, rồi anh lại ra đi
Đôi mắt lo âu, lời âu yếm xẻ chia
Lúc anh đến, anh đi thành quá khứ
Anh thuộc về những người ngoài cánh cửa
Của con đường, trang viết, câu thơ
Mùa vải thiều lại tới mùa dưa
Mùa hoa phượng chắc rơi hồng mái phố
Đường cuốn bụi bờ đê tràn ngập gió
Những phố phường lầm lụi với lo toan.
Dù cùng một thời gian, cùng một không gian
Ngoài cánh cửa với em là quá khứ
Còn hiện tại của em là nỗi nhớ
Thời gian ơi sao không đổi sắc màu.
6/1988
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Nguyệt thị cố hương minh.
Lưu Quang Vũ cùng bố mẹ ở chiến khu Việt Bắc
(ông Lưu Quang Thuận & bà Vũ Thị Khánh)
(ông Lưu Quang Thuận & bà Vũ Thị Khánh)
Lưu Quang Vũ+ Lưu Quỳnh Thơ+ Xuân Quỳnh (vợ sau)
(cả 3 đều tử nạn ngày 29/8/1988 trong một tai nạn giao thông)
(cả 3 đều tử nạn ngày 29/8/1988 trong một tai nạn giao thông)
Lưu Quang Vũ (đứng bên trái) và các bạn văn nghệ sĩ miền Nam:
-nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngồi giữa, sau lưng Trịnh Công Sơn mặc áo nâu là họa sĩ Đỗ Quang Em, áo trắng bên phải có "ria". là họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi, góc phải râu quai nón là họa sĩ
Trịnh Cung, (1988?)
(...)
---------------------------------------------
trích một phần từ blog phan nguyên
-----------------------------------------------
-nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngồi giữa, sau lưng Trịnh Công Sơn mặc áo nâu là họa sĩ Đỗ Quang Em, áo trắng bên phải có "ria". là họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi, góc phải râu quai nón là họa sĩ
Trịnh Cung, (1988?)
(...)
---------------------------------------------
trích một phần từ blog phan nguyên
-----------------------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét