(ảnh do NSNA Bạch Ngọc Danh (cháu rể nhà văn Nguyễn Vỹ) cung cấp cho Hội VHNT tỉnh Quảng Ngãi nhân dịp hội thảo.)
TẬP THƠ ĐẦU "PREMIÈRES POÉSIES/ NGUYỄN VỸ"
LẠI NGUYÊN ÂN
LỜI DẪN – Nhân dịp Hội VHNT tỉnh Quảng Ngãi chuẩn bị một hội thảo về thân thế và sự nghiệp của nhà báo, nhà văn NGUYỄN VỸ (1912-1971), tôi tìm lại cuốn sách đầu tay của ông, – tập PREMIÈRES POÉSIES, TẬP THƠ ĐẦU do tác giả tự xuất bản, in tại nhà in Tân Dân, Hà Nội, 1934.
Khi nhờ một vài đồng nghiệp cho thông tin về việc tác phẩm này được đề cập ra sao trong phê bình nghiên cứu văn học ở miền Nam thời kỳ 1954-1975, tôi được cung cấp thông tin dè dặt rằng chừng như hồi đó ít ai nhắc tới cuốn sách này, kể cả tác giả, rằng dường như cuốn sách ấy hồi in ra đã không phát hành ở miền Nam (?!).
Tôi đã tự tay đánh máy lại tập thơ, rồi gửi nhờ nhà nghiên cứu giáo dục Phạm Toàn dịch giúp phần thơ chữ Pháp trong tập thơ này của Nguyễn Vỹ.
Đây là một trong những tập thơ mới được in sách tương đối sớm, ngay thời đầu của 'Phong trào Thơ Mới tiếng Việt.' (1932-45).
Xin giới thiệu lại với bạn đọc, bạn nghiên cứu.
LẠI NGUYÊN ÂN
TẬP THƠ ĐẦU PREMIÈRES POÉSIES/ NGUYỄN VỸ
Ngày 6 tháng 6 năm Giáp Tuất (17 Juillet 1934)
À tous ceux qui me connaissent et qui m’ aiment.
Xin tặng những ai biết ta và yêu mến ta.
N.V.
Larmes au yeux, le porte-plume à la main,
Lecteurs, voici un poète innconu, qui se présente à vous. Si vous ne l’ accueillez pas, ne le méprisez point.
Nước mắt đầm đìa, tay cầm cây bút
Thưa bạn đọc, đây là một nhà thơ vô danh trình diện cùng bạn Nếu không được đón chờ, xin các bạn đừng khinh bỉ hắn
POÉSIES FRANÇAISES / thơ ] bằng tiếng Pháp [Phạm Toàn dịch]
I. Nuits d’ insomnie IV / Những đêm mất ngủ IV
II. Nuits d’ insomnie VI / Những đêm mất ngủ VI
III. Débris d’ aile … debris d’ Elle / Những mảnh vụn cánh bay
… những mảnh vụn của Nàng
IV. Décembre / Tháng chạp
V. Tritesse sans cause / Buồn không duyên cớ
VI. Thu-Tâm/ Thu-Tâm
VII. Pluie / Mưa
VIII.
|
Tu ne comprends pourquoi… ? / Em không hiểu sao ư…?
A couver les petits au creux de hautes cimes.
Du Ciel trop étroit, il découvre la voȗte,
Pointe vers d’ autres airs aux horizons sans fin;
Mais, parfois, tremblant, il s’enferme dans le doute
De sa propre envergure et de son grand destin;
Alors, muet, au bord des rivages brumeux,
Il becquette des grains de la bonne patience,
Promène son regard tout autour des cieux,
Et l’ arrête soudain pour crier à d’ offense.
……………………………………………..
Dans l’ épaisse forêt, de filaos murmurent,
Elevent jusqu’aux nues leur feuillage frileux.
Ils chantent les chansons et les plaintes obscures
Que le disent les Morts sous les tombeaux vieux.
………………………………………………….. Sourdement, par de nuits, quand roule l’
univers,
Sourdement, ont poussé les futaies et les ronces.
Sur des troncs abattus par les rudes hivers
D’ autres nouveaux espoirs pour autres temps s’ annoncent.
……………………………………………………..
Souvent, dans un abîme, une planète tombe:
Toute l’ âme pleure. C’ est une pitié !
Et le rêveur entend du fond noir de la tombe
Để uống mặt trời, tinh tú cùng bao tia sáng
Để ấp ủ lứa chim non giữa những chóp núi cao
Từ Trời cao quá chật chội, chim tìm ra vòm rộng,
Chim phóng sang những miền khí trời khác không thấy chân trời; Nhưng đôi khi run rẩy chim co mình trong nghi ngại
chính tầm vóc của mình và số phận mình bao la;
Khi đó chim lặng câm đi tới những dòng chảy mù sương
Lặng lẽ mổ những hạt của lòng kiên trì nhẫn nại,
Chim đưa mắt nhìn quanh bao la trời đất
Rồi chợt ngừng để cất tiếng giận hờn
……………………………………………. Trong rừng rậm những cây dương liễu thì thầm,
Dâng cao tận mây trời đám lá xanh run rét.
Dương liễu cất tiếng hát và cất lời than van huyền bí
Mà những kẻ Chết rồi đang nói dưới những nấm mộ già.
……………………………………………. Âm ỉ nhiều đêm,
khi vũ trụ lăn tròn, Âm ỉ,
Rừng cây mọc dậy.
Trên những thân cây bị những ngày đông giá đốn hạ
Bỗng lại thắp lên những niềm hy vọng mới cho những thời xa khác.
………………………………………………. Đôi khi một hành tinh rơi xuống một vực sâu:
Cả tâm hồn khóc. Ôi thảm thương! Và kẻ mộng mơ nghe cất lên từ đáy sâu đen ngòm nấm mồ
La voix d’ un désespoir vers le destin
|
Tiếng kêu một niềm tuyệt vọng gửi
|
crier.
|
đến Mệnh Trời.
|
Un ange passé. Un bruit. Un souffle. Un
|
Một thiên thần ngang qua. Một tiếng
|
appel doux
|
động. Một hơi thở. Một tiếng gọi dịu
|
Et clair, mystérieux, vibrant telle une
|
êm
|
lyre,
|
Và trong trẻo, bí ẩn, rung lên như
|
Laisse voler ce brume: “Ame, consolez-
|
một cây đàn thần,
|
vous,
|
Hãy để sương mù đó bay đi: “Tâm
|
Un géant naîtra de cette grande
|
hồn ơi hãy ấm lòng,
|
martyre!”
|
Có một kẻ khổng lồ sẽ sinh ra từ
|
nàng tội đồ to lớn ấy!”
| |
…………………………………………………..
|
………………………………………………
|
Parfois, un bruit tremblant, un spasme,
|
Đôi khi, một tiếng động run rẩy, một
|
un sourd tonnerre,
|
co giật, một tiếng sấm đùng đục
|
Roule par les parois du ciel très
|
Rền vang trên thành trời cao hết sức
|
clément.
|
nhân từ.
|
Puis, soudain, surgissant des rides de la
|
Rồi chợt chồi lên từ những vết nhăn
|
terre,
|
trái đất,
|
Un énorme château s’ érige au
|
Một lâu đài khổng lồ mọc lên nơi
|
firmament.
|
chân trời.
|
…………………………………………….
| |
………………………………………………………..
|
Nhưng vào những chiều buồn khi
|
Mais par de tristes soirs, quand l’ âme s’
|
tâm hồn thấy âu sầu,
|
assombrit,
|
Thấy trống không càng mênh mang
|
Que le vide se fait plus immense autour
|
quanh nàng,
|
d’ elle,
|
Con diều hâu hoảng sợ cất tiếng kêu
|
Le vautour affolé jette un lugubre cri
|
chết chóc và rồi chợt vỗ cánh bốc
|
Et s’ envole aux hauteurs, brusquement,
|
bay cao.
|
d’ un coup d’ aile.
|
Thế là, tựa như núi Phú Sĩ đang run
|
Alors, tel le sacré Foudji Yama qui
|
rẩy,
|
tremble,
|
Cả thành bang của kẻ mộng mơ
|
La cité du réveur se secoue fortement;
|
bỗng mạnh mẽ lắc rung;
|
Et quelque grand rocher, ou un autel,
|
Và một tảng đá lớn, hoặc một ban
|
un temple,
|
thờ, một ngôi đền
|
Se brise en deux et croule avec un
|
Bỗng vỡ vụn và lăn xuôi ken két.
|
grincement.
|
Kẻ mộng mơ đơn côi với ánh mắt
|
Le rêveur solitaire au regard sepulchral
|
như nấm mồ
|
Promène ses pas lents à travers ces
|
Thong thả dạo bước qua những tan
|
décombres,
|
tành đổ vỡ
|
Relevent les éclats des vases de cristal
|
Và nhặt lên những mảnh bình pha lê
|
Qu’ il baise chèrement puis les enfouit d’
|
Rồi thắm thiết đặt môi hôn rồi chôn
|
ombres.
|
vùi chúng vào bóng tối,
|
…………………………………………………
|
…………………………………………..
|
Il vient, larme au yeux, le pauvre
|
Mắt đẫm lệ, chàng cô đơn đáng
|
solitaire,
|
thương
|
Contempler ce tableau sous un soleil
|
Tới nhìn cảnh đó vào một buổi chiều
|
mourant,
|
đang tắt,
|
Pleurer un Idéal qui est mort sur la
|
Khóc thương cho một Lý tưởng đã
|
terre,
|
chết trên trái đất này
|
Ou un rêveur blessé qui s’ envole en
|
Hoặc một kẻ mộng mơ đầy người
|
pleurant…
|
thương tích đang vừa khóc vừa bốc
|
bay lên trời cao.
|
Déjà chantent les coqs? Dans ton silence obscure,
O Nuit, j’ ai tant veillé ? Tu me parais si brève !
Chasse-moi, de mon front, cette horde de rêves,
Et laisse-moi, dormir avant que ne se lève
Le soleil dans l’ azur.
Je n’ai point de fouet pour chasser ces brebis,
Ces colombes, ces Juifs qui garnissent mon temple.
Je disperse en vain cette foule qui s’ assemble.
Rêver, songes, pensers, que vous volez ensemble
Mon sommeil, c’ est bien pis !
Mon âme est oppressée. Muse, desends vers moi !
Suis-je cette chose qu’ on appelle poète
?
Au coin du firmament, une beauté reflète:
Est-ce toi que je vois, Divinité distraite, Par un trou de mon toit?
VI
Gà gáy sáng rồi sao? Hỡi đêm đen, trong chốn lặng câm tăm tối của người, phải chăng ta đã thao thức quá nhiều? Ôi đêm sao mà quá ngắn!
Hãy đuổi khỏi vầng trán của ta cái bầy lũ giấc mơ kia,
Và để ta ngủ trước khi chưa mọc
vầng mặt trời trên cao xanh.
Ta chẳng có cây roi để xua đi những con chiên ấy
(và) những con bồ câu, những người Do Thái đang ở chật ngôi đền nhà ta. Ta xua đuổi vô vọng cái đám đông đang tụ hội lại.
Mơ màng, mộng mị, nghĩ suy, hãy cùng bay đi hết
Giấc ngủ của ta, thật tồi tệ!
Tâm hồn ta bị bóp nghẹt. Hỡi Nàng Thơ, hãy xuống cùng ta!
Phải chăng ta là cái thứ có tên gọi nhà thơ?
Ở một góc chân trời chợt thấy ánh lên một Vẻ đẹp:
Có phải Nàng là vị Thiên thần lơ đãng Ta nhìn thấy qua lỗ thủng mái nhà?
Je hais ton amitié, ton nom, dont on abuse
Pour se glorifier. Non! Tu n’es qu’ une instruse
Qui n’ as que l’ ambition !
Trompeuse Beauté ! Comme celles d’ ici-bas,
Parfaites, ells sont plus perfides, plus vaines.
On flatte la richesse et la gloire certaines,
Mais le pauvre génie qui gémit dans les peines,
On ne reconnaît pas.
Le génie est en nous. Toi, fille de notre Art,
Tu te prostitues. Je plains les âmes mourantes,
Faibles, abandonnées, mornes, désespérantes,
Que tu avais bercées, ô l’ infidèle amante,
Dans ton vaste lupanar !
Pour un rien de renom, tu offres tes baisers,
Mais un pauvre Musset, un vieux Lamartine,
Lorsque leur traître destin contre eux se mutine,
Tu les laisses souffrir dans une affreuse ruine
D’ amours inapaisés.
Le génie est en nous. Il est un de nos
Không! Hãy biến đi, Hiện Hình vô dụng! Ta là nhà thơ nhưng người không phải Nàng Thơ.
Ta ghét bỏ tình bạn cùng tên tuổi ngươi, mà người đời lạm dụng
Để đánh bóng mình. Không, người chỉ đột nhập mà không được mời
Ngươi chỉ có tham vọng mà thôi!
Vẻ đẹp lọc lừa! Như vô vàn cái đẹp chốn đây
Càng tuyệt trần, càng nham hiểm, càng vô cùng vô dụng.
Thiên hạ tung hô sự giàu sang và vinh quang đâu đó,
Nhưng bậc thiên tài tội nghiệp đang rên rỉ trong nhọc nhằn
Nào ai nhận thấy.
Thiên tài là ở trong chúng ta. Ngươi, con điếm của Nghệ thuật chúng ta, Ngươi tự bán thân. Ta cảm thương những linh hồn đang chết,
(Những linh hồn) Yếu đuổi, bị bỏ rơi, khô cằn, tuyệt vọng
Đã từng được ngươi, hỡi kẻ tình nhân vô chung vô thủy
ôm ấp trong ngôi nhà thổ mênh mông!
Cho một kẻ nổi danh tồi tàn, người hôn hôn hít hít,
Nhưng một Musset tội nghiệp, một Lamartine già nua,
Vào lúc số phận lọc lừa nổi lên chống lại họ,
Ngươi mặc xác họ đau khổ trong cảnh hoang tàn xấu xí
Của những mối tình không thỏa.
Thiên tài là ở trong chúng ta. Đó là
Nous l’ avions reçu dans le sein de nos mères.
Quand s’ allument nos fronts de gloires premières,
Ou quand nous sommes pris dans de noires misères,
Il exalte nos chants.
Nous le tuerions, hélas ! bien volontiers,
Dédaigneuse et impie, la foule nous méprise.
Mais il nous est trop cher. Et quand le soir, la brise
Se lève sur les eaux, dans nos cɶurs, il se grise
Et se lève en entier !
D’ autres “Nuits d’ ínomnies” praraîtront dans “Etres et Choses d’ Annam”
một trong những giác quan của ta. Chúng ta nhận được thiên tài từ dòng sữa mẹ.
Khi những vinh hoa đầu tiên làm rạng rỡ vầng trán chúng ta,
Hoặc khi chúng ta bị trói vào trong những khốn cùng đen tối,
Thiên tài đến và tán dương những lời ca chúng ta cất tiếng.
Nhưng thương ôi, chúng ta đồng lòng giết chết thiên tài ấy,
Đám đông dửng dung và vô ân khinh bỉ chúng ta.
Nhưng với chúng ta thiên tài có giá trị thật cao, Và khi chiều buông, làn gió nhè nhẹ lướt trên mặt nước, trong lòng chúng ta, thiên tài ngất ngây say
Đứng vùng thẳng dậy!
|
|
Còn những “Đêm mất ngủ” khác nữa sẽ ra mắt trong “Etres et Choses d’ Annam” (Cảnh và người xứ Nam)
| ||
|
Ce sont des débris d’ Elle …
Mais tu mourus heureuse, adorable colombe,
Auprès de ton chéri ;
ll ne m’ est point donné de pleurer sur Sa tombe,
A moi, l’ oiseau proscrit !
Las ! Sais-tu seulement qu’ un triste soir d’ été,
Un vent a emporté,
Avec le dernier chant de ton ami fidele, Tes derniers débris d’ aile ?
Ainsi, ô belle (1) oiseau ! Je murmure à mon tour
Mon dernier chant d’ amour !
Car, rien ne restera, quand tout meurt avec Elle,
Même les débris d’ Elle !
Fragiles souvenirs, − chignon, mouchoir, image,
Rose et baisers flétris,
D’ un temple foudroyé par un stupide orage
Où deux cɶurs ont péri !
(1) Laissez “belle” pour l’ amour de l’ auteur
Décembre
Depuis hier, inquiet, triste et seul dans ma chambre,
Je n’ entends pas un chant de mes divines oiseaux.
La bise qui prévient le retour de
màu mắt Em,
Chỉ còn những mảnh vụn của Nàng.
Nhưng hỡi bồ câu yêu dấu, chim đã chết sung sướng,
Bên cạnh bạn đời yêu thương;
Còn ta, đâu ta được khóc bên nấm mồ Nàng,
Con chim biệt xứ!
Mỏi mệt! Bồ câu ơi, biết chăng một chiều mùa hè buồn bã,
Một ngọn gió đã cuốn đi
Những mảnh cánh cuối cùng của em Cùng với tiếng hót cuối cùng của bạn đời em chung thủy?
Vậy thôi, hỡi con chim đẹp! Đến lượt ta, xin cho ta
Cất lần cuối tiếng hát ca ngợi cuộc tình! Vì sẽ còn gì nữa đâu khi
Tất cả đều ra đi cùng Nàng,
Kể cả những mảnh vụn của Nàng!
Mấy kỷ vật mong manh – lọn tóc, khăn tay, ảnh hình,
Bông hồng và những nụ hôn úa héo Của một ngôi đền bị giông tố vùi giập nát tan
Nơi hai trái tim dều cùng chết!
(Tác giả chú thích cách dùng chữ belle không được hay lắm, nhưng hợp tình cảm tác giả)
Tháng chạp
Từ hôm qua, thấy âu lo, buồn bã, chỉ một mình trong phòng,
Chẳng còn nghe được một tiếng ca nào từ bầy chim thiêng liêng.
Gió bấc báo hiệu tháng chạp về
Les a chassés, impie ! de leurs joyeux rameaux.
Déjà, le crachin choit, chargé de pointes d’ ambre;
L’ hiver vient grelotter auprès de mes rideaux.
Ainsi, déjà mon cɶur sent frissonner Décembre:
Je l’entendis hier soir pousser de longs sanglots.
Tristesse sans cause Souvent, lorsque par des soirs d’ hiver, je reste éveillé, à écouter les bruits de
la nuit, une voix m’ appelle. Une voix lointaine, qui appelle à peine. Soit dans une salle aux murs décorés, sous un plafond décoré, où brille, suspendue, une lumière électrique, soit entre les murs détériorés en terre battue d’ une chaumière rustique, par des froides veillées, je reste éveillé durant les cinq veilles, à écoutter, à rêver.
Dehors, le crachin froid est tamisé, par filets, et succède au averses d’une voȗte brisée. L’ eau entraîne, en tombant, des torrents de ténèbre. On entend de temps en temps comme des miettes de ciel tomber en vrombrissant sur la terre, ou des planètes entieres qui craquent et se noient. Les crêtes des toits sont submerges comme des récifs sur une mer d’ orage.
Le vent souffle dans la campagne et
Ngọn gió ác vô tình
Đã xua đàn chim khỏi những cành cây chúng đang vui sống
Mưa phùn đã nhẹ rơi rồi,
Mỗi giọt mưa một mũi gươm đâm; Mùa đông về run rẩy bên những mảnh rèm phòng ta.
Vậy đó, trái tim ta đã cảm được tháng chạp về run rẩy:
Từ chiều qua ta đã nghe tháng chạp buông những chuỗi nức nở dài.
Buồn vô cớ
Đôi khi, tôi nằm thức giấc vào những đêm đông dài, tai lắng nghe những tiếng động ban đêm, có tiếng ai đang gọi mình. Một tiếng gọi xa xăm cứ gọi tôi hoài. Có khi đó là trong căn phòng tường và trần có trang hoàng và có đèn điện sáng, có khi đó là trong gian nhà quê vách đất tồi tàn vào những đêm canh lễ rét mướt, và tôi ngồi đó năm đêm thức liền, lắng nghe, mơ màng.
Bên ngoài tiếng mưa đã nhẹ đi từng đợt rồi lại tiếp liền mưa xối xả như từ cái vòm cao bị vỡ òa xuống. Mưa rơi đem theo những trận lũ bóng đêm. Thỉnh thoảng lại nghe như có từng mảng trời nhỏ ù ù rơi xuống đất, hoặc như là cả một hành tinh đã vỡ vụn và đang chết chìm trong nước. Mái nhà ngập nước nhô lên như những mỏm đá ngầm trồi lên trên mặt biển đang phong ba.
Gió thổi trên cánh đồng và xô đập vào
vient claquer à ma porte. Au seuil, gémit un mendiant. Et le vent qui vient claquer à ma porte, fait claquer le manteau de latanier qui recouvre le mendiant et son panier. Dans ma salle auprès du feu, j’ entends un râle déchirant que déchire le vent.
Je recueille d’ autres plaintes perdues dans les rafales. Il fait froit quelque part en dehors de ce monde. Il fait froit sous les tombes profondes; aux raciness des filaos; aux raciness des frangipaniers. L’ eau suinte aux parrois des tombeaux par les fentes des pierres, et s’égoutte sans bruit sur la mousse des bières. Les cadavres couchant silencieux; et l’ eau s’égoutte une goutte sur les lèvres, une goutte sur yeux. Les cadavres des vieux, les cadavres des grands, les cadavres d’ enfants, les cadavres des femmes, cadavres des l’ humanité entassés des siècles passés l’ épiderme de la Terre qui les porte en grinçant. Et l’ eau de pluie suinte par les fentes de pierres, s’égoutte sans bruit sur la mousse de le bières.
Dans mon âme, se creuse un gouffre sans bord, d’ où j’ éntends monter cette voix tenèbreuse: “Ô tristesse du sort !” C’ est cette voix qui m’ appelle, lorsque par de froides veillées, je reste eveillé, à écouter les bruits de la nuit. Elle appelle à peine…
cửa nhà tôi. Bên bậu cửa một người hành khất đang rên rỉ. Gió xô đạp vào cửa nhà tôi cũng xô đập vào cái áo tơi lá đang che cho người hành khất và chiếc thúng nhỏ của ông ta. Trong căn phòng bên bếp lửa của mình, tôi nghe được tiếng rên xé lòng đang xé gió.
Tôi còn nghe được nhiều tiếng than van lạc trong những làn gió. Trời lạnh đâu đây bên ngoài thế gian này. Trời lạnh bên dưới những nấm mộ sâu; lạnh nơi rễ những cây dương; lạnh nơi rễ những cây hoa đại. Nước rỉ ra từ khe đá ở thành những nấm mộ và lặng lẽ nhỏ giọt lên lớp rêu trên các tấm bia mộ. Những xác chết nằm yên lặng, và một giọt nước nhỏ xuống cặp môi một giọt nhỏ xuống mắt. Những xác chết người già, những xác chết cao lớn, những xác chết trẻ nhỏ, những xác chết đàn bà, xác chết của nhân loại chồng chất nhiều thế kỷ qua nằm trên lớp vỏ Trái đất nghiến ken két mang nặng chúng. Và nước vẫn đang rỉ ra từ khe đá ở thành những nấm mộ và lặng lẽ nhỏ giọt lên lớp rêu trên các tấm bia mộ.
Một hố sâu không bờ đào vào trong
tâm hồn tôi từ đó tôi nghe thấy tiếng nói u ám này: “Ôi nỗi buồn thân phận!” Chính tiếng nói này đã gọi tôi khi trong những đếm thức trắng tôi lắng nghe những tiếng động đêm khuya. Tiếng nói cứ gọi tôi vô vọng…
Thu-Tâm
J’ étais un grand rêveur et gardien de pagode.
Ma chambre solitaire avait l’ air d’ une grotte.
Comme nous sommes deux toujours, mon ombre et moi,
Je n’y étair pas seul. Un soir, il faisait froid.
Le vent soufflait dehors, et soufflait dans mon gîte.
− Vous savez ce que c’ est que le trou d’ un ermite?
Je cueillais des pensées dans mon esprit trop mȗr.
Ma compagne de nuit observait, de son mur,
Sous le masque muet où mes ennuis la plongent,
Mes yeux absorbés de réves et de songe.
Une lampe tremblait de misère et de froid.
C’ était minuit.
Soudain, je fus saisi d’ émoi.
Des coups désordonnés frappèrent à ma porte.
Et des cris lancés par une voix assez forte,
Des cris haletants m’ appelèrent par mon nom.
Sans me demander s’ il fallut sortir ou non,
Je saute de mon lit, j’ y cours, et par la porche,
Je vis briller dehors éclatante torche.
J’ ouvre: ce fut Thu-Tâm. Deux hommes la tenaient,
Son frère et son neveu: tous les deux s’ effaraient.
Thu-Tâm
Tôi vốn dĩ là kẻ vô cùng mộng mị và là kẻ giữ chùa.
Căn phòng đơn độc của tôi có dáng vẻ một hang đá.
Vì chúng tôi có những hai người, tôi và chiếc bóng,
Nên tôi chẳng bao giờ ở đó một mình. Một chiều, trời lạnh.
Gió thổi bên ngoài và thổi vào nơi tôi ẩn náu.
− Bạn biết cái chốn ẩn dật dung thân của một ẩn sĩ chứ?
Tôi rút ra những suy ngẫm từ trong cái đầu quá già dặn của mình.
Bạn đồng hành ban đêm của tôi từ trên bức tường vẫn quan sát tôi,
Dưới tấm mặt nạ câm lặng chất chứa đầy những buồn phiền của tôi,
Đôi mắt tôi ngập tràn những mơ cùng mộng.
Một chiếc đèn con run lên vì cùng khổ và lạnh lẽo.
Đã giữa đêm.
Chợt tôi thấy xáo động trong lòng .
Có những tiếng đập liên hồi vội vã lên cửa nhà mình.
Và những tiếng kêu thốt lên từ một tiếng người khá mạnh mẽ,
Những tiếng kêu trong hổn hển gọi rõ tên tôi.
Không kịp nghĩ suy xem có nên ra hay không,
Tôi vùng dậy, chạy ra cửa, và nhìn qua lỗ mở,
Thấy bên ngoài có ánh đuốc sáng.
Tôi mở cửa: đó là Thu-Tâm. Hai người đàn ông giữ nàng,
Một em trai, một cháu trai: cả hai nom dễ sợ.
Mẹ và cháu gái nàng gọi nhau, kêu la và hoảng loạn,
Sa mère, sa nièce appellant, crient, s’
|
Nhưng ở khóe mắt nàng tôi thấy long
|
alarment,
|
lanh hai giọt lệ,
|
Tandis qu’ à ses yeux je vis briller deux
|
Đôi mắt mở to hoàn toàn không chớp
|
larmes,
|
nháy !
|
Deux yeux tout ouverts que ne remue
|
Từ cổ họng nàng thoát ra tiếng nức
|
un clin !
|
nở trong veo.
|
De sa gorge montait un sanglot
|
Làn sóng tóc nàng chảy xuống tận
|
cristallin.
|
dưới đùi.
|
Des flots de ses cheveux coulaient
|
Chợt từ tròng mắt nàng rực cháy
|
jusqu’ à ses jambs.
|
những ánh vàng;
|
Soudain, des reflets d’ or dans ses
|
Tôi cảm động, tránh qua bên.
|
prunelles flambant;
|
Mọi người vào chùa. Mọi người vội vã
|
Saisi d’ émotion, je m’ écartai de côté.
|
tới bàn thờ.
|
On entra. Devant l’ autel tous se
|
Nhà chùa tràn ngập mùi khói hương.
|
precipitant.
|
Mọi người quỳ lạy, cầu nguyện thần
|
La pagode se remplit de fumée d’
|
linh phù hộ;
|
encens.
|
Cầu nguyện xin chở che và cầu
|
On s’ agenouille, on prie les génies
|
nguyện xin chu cấp,
|
bienfaisant;
|
Họ dâng lễ và còn hứa hẹn thêm
|
On implore leurs protections et leurs
|
nhiều lễ lạt,
|
auspices,
|
Còn trên ban thờ, mười hai vị thần
|
On leur offre et promet encore des
|
linh dịu dàng nhã nhặn
|
sacrifices,
|
Lắng nghe thánh thiện những lời cầu
|
Tandis que sur l’ autel, douze affables
|
nguyện rì rầm sung kính kia,
|
Dieux
|
Trên chiếc chiếu trải phẳng phiu trước
|
Ecoutent saintement ces murmures
|
ban thờ,
|
pieux.
|
Tay cầm hai cây nến mà ngọn lửa làm
|
Sur la natte tendue devant le
|
chảy tràn những giọt nến,
|
sanctuaire,
|
Thu-Tâm ngồi, ôi vẻ đẹp mới đáng tôn
|
Et tenant deux bougies dont les
|
thờ biết bao!
|
flammes suèrent,
|
Đôi mắt nàng long lanh sang đến lạ
|
Thu-Tâm était assise, adorable beauté !
|
kỳ,
|
Ses yeux rayonnants d’ une étrange
|
Chăm chăm ngước nhìn Vòm thờ
|
clarté,
|
trung tâm,
|
Et fixement levés vers la Voȗte centrale,
|
Đôi khi lại ứa một giọt lệ trinh trắng.
|
Suintaient par moment une larme
|
Tôi trở về phòng và tôi khóc thầm.
|
virginale.
|
Ôi Trời! Kể từ đêm nay, tôi còn gì để
|
Je rentrai dans ma chambre, et je
|
khóc hơn nữa?
|
pleurai tout bas.
| |
Dieu! Depuis ce soir, que ne pleuré-je
| |
pas ?
|
Pluie
La pluie vient de se taire, Sur le toits, sur la terre, Respire la fraîcheur.
Languissante, en silence, Dans le ciel immense,
La lune essuie ses pleurs.
O lune solitaire,
Qui brilles sur la terre. Brilles-tu dans mon cɶur ? Trop souvent, en silence, Dans cet abîme immense Il ne tombe que pleurs.
Goutte à goutte, les pleurs Dans cet abîme immense S’ absorbent en silence; Tels les pleurs de ton cɶur Qui tombent sur la terre, O lune solitaire !
Et lorsque sur là terre La rêveur solitaire Interroge son cɶur,
Dans cet abîme immense, Goutte à goutte, en silence, Il ne tombe que pleurs !
Les gouttes de tes pleurs, O lune de mon cɶur !
Sous la terre, en silence, Réveillent un immense Bruit glacé des soupirs.
Chaque goutte de pleurs Tombe ainsi dans mon cɶur. Tel un abîme immense,
Et reveille en silence Un triste souvenir…
Mưa
Mưa vừa mới ngắt cơn Trên mái nhà, trên mặt đất Tỏa ra sự tươi mát.
Lặng lẽ và uể oải
Trên trời mênh mang cao Trăng chùi khô dòng lệ.
Ôi trăng cô đơn Bừng soi trái đất.
Trăng có bừng soi tim ta? Rất nhiều khi, lặng câm,
Từ vực thẳm mênh mang ấy
Trăng chỉ thả xuống những lệ tràn.
Từng giọt từng giọt lệ
Từ vực thẳm mênh mang ấy Lặng lẽ thấm;
Những giọt lệ trái tim Trăng Rơi rơi xuống đất,
Ôi trăng cô đơn !
Và khi trên mặt đất Kẻ mộng mơ đơn côi Tra hỏi trái tim mình,
Từ vực thẳm mênh mang ấy Từng giọt từng giọt, lặng câm Chỉ rơi xuống những nước mắt!
Nhưng giọt nước mắt trăng, Ôi trăng của long ta!
Lặng lẽ, rơi xuống đất Đánh thức một mênh mang
tiếng động giá băng những thở dài.
Từng giọt nước mắt
Cứ rơi như vậy vào tim ta.
Như một mênh mang vực thẳm, Và lặng lẽ đánh thức
Một hồi ức âu sầu…
Tu ne comprends pourquoi ?
à X xxx
Tu ne comprends pourquoi j’ ai pleuré toutes choses ?
Que mes larmes tombaient jour et nuit sans tarir
Quand je le soir mourir de belles roses, Quand je voyais la lune au matin s’
alanguir ?
Tu ne comprends pourquoi, quand mourut ma colombe
Par un destin fâcheux que je n’ ai point compris,
J’ ai pleuré nuit et jour à côté de sa tombe,
J’ ai gardé sa mémoire et ses pieux débris ?
Tu ne comprends pourquoi, jusques aux cimetières,
Je suivais des cercueils couverts lotus blancs ?
Tu ne comprends pourquoi je disais des prières
Pour les chastes Beauté qui mouraient à vingt ans ?
Que sans même savoir le nom de ces Vierges,
Je venais tristement à leurs tombeaux m’ asseoir ?
Et qu’ en voyant pleurer la blancheur des cierges,
Mes larmes chaudement tombaient sur mon mouchoir ?
Tu ne comprends pourquoi je pleurais les cinq veilles.
En songeant à combien de filles sans mari
Qui pleurent de se voir chaque jour plus
Em không hiều vì sao ư?
Tặng X xxx
Em không hiểu vì sao anh khóc cho mọi điều?
Nước mắt anh ngày đêm rơi chẳng cạn
Khi hoa hồng đẹo chết mỗi chiều
Khi sớm mai anh thấy trăng lờ đờ lặn?
Em không hiểu vì sao, khi con chim câu của anh bị chết
Vì một số phận trớ trêu mà anh chẳng hiểu,
Anh khóc ngày khóc đêm bên nấm mồ chim,
Anh nhớ chim câu hoài cùng những mảnh vụn của nó?
Em không hiểu vì sao, anh theo đến tận nghĩa trang
Những quan tài phủ kín hoa sen trắng?
Em không hiểu vì sao, anh nguyện cầu Cho những Vẻ Đẹp trinh trắng ra đi lúc tuổi hai mươi?
Cho dù không biết tên những Trinh nữ ấy,
Anh vẫn buồn bã tới ngồi bên những nấm mồ các nàng?
Và khi nhìn những ngọn nến trắng đang khóc,
Nước mắt anh ấm nóng rơi trên khăn tay anh?
Em không hiểu vì sao anh khóc trong năm đêm canh lễ
Khi nghĩ biết bao cô gái không chồng Đang khóc mỗi ngày khi thấy mình ngày càng già đi,
vieilles,
Et qui mourront dès que leurs pleurs auront tari ?
|
Và sẽ chết khi nước măt họ cạn khô?
|
Tu ne comprends pourquoi quand une femme pleure,
Ou quand son doux visage est sombré de chagrins,
Au bord de mes yeux un grain de larme effleure,
Puis viennent un à un se poser d’ autres
grains ?
|
Em không hiểu vì sao khi một người đàn bà khóc,
Hoặc khi gương mặt dịu hiền của nàng u sầu vì lo buồn,
Thì khi đó một hạt lệ nhỏ nhoi đã tới nằm bên mí mắt anh,
Rồi những hạt những hạt khác sẽ cùng kéo tới?
|
Tu ne comprends pourquoi tristement je m’ incline
Devent le veuve au front bandé d’ un turban blanc ?
Que je salue bien bas à l’ entrée de l’ usine
L’ ouvrière qui baise en hâte son enfant
?
|
Em không hiểu vì sao anh buồn bã nghiêng mình
Trước góa phụ mang khăn trắng trên đầu?
Khi anh khẽ cúi chào người nữ công nhân
Vội vàng hôn con ở cổng xí nghiệp?
|
O Passant, mon ami ! Ne ris pas de mes larmes.
Mon cɶur à des douleurs que rien ne peut bercer.
Et, poète, il me faut d’ éternelles alarmes;
La gaîté est un art où je suis mal versé.
|
Hỡi người Qua đường, bạn tôi ơi! Xin đừng cười những dòng lệ của tôi.
Tim tôi có những nỗi đau mà không có gì an ủi nổi.
Và hỡi nhà thơ, tôi cần có vô vàn những trận báo nguy;
Tôi không quen được với sướng vui.
|
J’ ai des larmes partout dans mon cɶur, dans mon âme;
Mais la goutte première à crevé par un soir,
Dans un rêveur troublant où pleurait une femme,
Où mon cɶur commença pour elle à
s’émouvoir.
|
Khắp trong tôi là nước mắt, trong tim này, trong tâm hồn này;
Nhưng giọt nước mắt đầu tiên đã vỡ tan vào một buổi chiều kia,
Trong một kẻ mộng mơ run rẩy được thấy một người đàn bà khóc,
Khi tim tôi bắt đầu xúc động vì nàng.
|
Et depuis, j’ ai pleuré en songeant aux souffrances
Et au triste destin des humaines Beautés.
Leur harmonie fragile est, hélas ! sans
|
Kể từ đó, tôi khóc khi nghĩ đến những khổ đau
Và nghĩ đến thân phận u buồn của những Vẻ Đẹp đàn bà.
Họ hài hòa yếu ớt và chẳng có giò che
chở,
|
Lorsque le ciel jaloux en vient aux cruautés !
Et depuis, j’ ai pleuré de voir de belles choses,
Ainsi qu’ elles hélas ! destinées à souffrir.
Et depuis, j’ ai pleuré quand sont fânées les roses,
Quand, au lever du jour, la lune va mourir.
Et depuis, j’ ai pleuré des oiseaux, des colombes.
Eux, poète ailés qui chantent les amours,
Ne laissent pas de nom, n’ ont même pas de tombes
En roucoulant les chants derniers de leurs jours !
Et depuis, j’ ai pleuré auprès des créatures,
Etres, choses, humains, qui souffrent ici-bas.
Mais leur âme et leur cɶur portent d’ amples blessures
Que les pleurs du poète, hélas ! n’ apaisent pas !
Ils traînent en pleurant leur destin sur la terre,
Ils appellent le ciel de leurs mains, de leurs cris,
Mais leur voix heurte contre un azur réfractaire
Et retombe à la terre en déchirants débris.
Et depuis, j’ ai pleuré les illustres grands Sages
Qui meurent oubliés dans leur temples moussus;
Et depuis, j’ ai pleuré dans les brousses
Khi trời cao ghen tức đến độ rat ay tàn ác!
Kể từ đó, tôi khóc khi nhìn thấy những điều tốt đẹp,
Những điều chao ôi số mệnh bắt phải khổ đau.
Kể từ đó, tôi khóc khi những đóa hồng phải héo úa,
Khi mỗi sớm mai trăng lại sắp phải lìa đời.
Kể từ đó, tôi khóc cho chim chóc và bồ câu.
Những nhà thơ có cánh chỉ ngợi ca tình ái,
Chết đi không để lại tiếng tăm và cả những nấm mồ
Khi gù gù ca những tiếng ca cuối cùng của những ngày tàn !
Kể từ đó, tôi khóc cho những sinh vật,
Những người những vật
đang đau khổ chốn nhân gian.
Nhưng tâm hồn và trái tim chúng lại mang những vết thương to tát
Mà những giọt lệ của nhà thơ, chao ơi, không sao đủ xoa dịu !
Chúng vừa than khóc vừa lê bước chân trên trái đất,
Chúng giơ hai bàn tay và chúng cất tiếng kêu để thấu đến trời,
Nhưng tiếng nói của chúng chạm phải một bầu thiên thanh khúc xạ dội trở lại
Và rơi xuống trái đất thành những mảnh vỡ rách nát.
Kể từ đó, tôi khóc cho những đại Hiền nhân
Đã chết đi trong quên lãng nơi đền đài rêu phong;
Và kể từ đó, tôi khóc trong những rừng già hoang dã
sauvages
Les Ruines désolées d’ un peuple qui ne plus.
|
Những Hoang phế hẻo lánh của một dân cư đã chẳng sống còn.
|
Et depuis, j’ ai pleuré les grands Dieux du monde,
Çakia détesté, Jésus mort sur la croix,
Eux qui versant aux cɶurs leur pitié profonde,
Prêchant l’ humanité aux peuples et aux rois.
Et depuis, j’ ai pleuré les arbres, les étoiles
Que fait naître et mourir un étrange Destin;
Et depuis, j’ ai pleuré en contemplant les voiles
Qui voguent vaguement vers l’ horizon
lointain.
|
Và kể từ đó, tôi khóc cho những Thần thánh vĩ đại trên đời,
Đấng Thích Ca bị ghét bỏ, đấng Jesus chết trên thập giá,
Những người đã nhỏ lòng thương sâu xa vào trái tim con người
Rao giảng cvho chúng dân và cho các quân vương.
Và kể từ đó, tôi khóc cho cỏ cây và trăng sao
Được Định Mệnh lạ kỳ sinh ra và làm cho chết;
Và kể từ đó, tôi khóc khi nhìn ngắm những cánh buồm
Đang lướt sóng mơ hồ tới một chân trời xa.
|
Devant une nature immense et romantique
Mon âme peu à peu fond, crève, et se dissout;
Alors, je presse en vain mon cɶur mélancolique :
Les pleurs, abondamment, répandent
partout.
|
Trước một thiên nhiên mênh mông và lãng mạn
Tâm hồn tôi dần dần tan ra, vỡ tung và tan biến;
Khi ấy tôi bóp chặt trong vô vọng trái tim âu sầu của mình:
Vô vàn tiếng khóc đang tràn lan khắp ngả.
|
Ainsi, ô mon ami, depuis que dans un rêve
Mon cɶur laissa couler ses premiers pleurs amers,
L’ immense Pitié, comme un souffle, s’ y lève
Et se répant, infiniment, dans univers ;
|
Vậy đó, bạn ơi, kể từ khi trong một giấc mơ
Trái tim tôi bắt đầu để chảy tràn những giọt lệ cay đắng đầu tiên,
Tình Thương mênh mang, như cơn gió, mọc lên từ đó
Và lan tỏa đến vô cùng trong Vũ trụ;
|
Ainsi, lorsque mon cɶur commençait à éclore
Sur de vagues lueurs et flous horizons, Il pleurait en silence; Ainsi pleure l’
aurore
Silencieusement sur l’ herbe des
|
Vậy đó, khi tim tôi bắt đầu nở như hoa
Trên những luồng sáng mơ hồ và trên những chân trời nhòa nhạt,
Nó lại khóc thầm;
Bình minh đã khóc như vậy đó
Khóc âm thầm trên những thảm cỏ
|
THƠ VIỆT NAM
(POÉSIES ANNAMITES)
I. Những đêm trằn trọc VII
II. Những đêm trằn trọc X
III. Cơn dông ở nhà quê
IV. Tìm gì ?
V. Tuổi em bé
VI. Đức thánh Đồng Đen
VII. Tiếng quạ kêu
VIII. Gái nghèo
IX. Đền đổ
X. Tình câm
XI. Thơ của ta
SẮP XUẤT BẢN (Juillet 1935)
Cảnh, Tình (thơ)
Việt Liễu (tiểu thuyết)
NHỮNG ĐÊM TRẰN TRỌC
VII
Những cặp mắt xinh đẹp mà ta thấy thoáng qua Ban ngày, lúc ta thủng thỉnh đi trên đường phố, Bây giờ một mình ta trằn trọc trong đêm tối,
Lại hiện ra trong trí ta.
Hỡi những cặp mắt đẹp! Ta, khách qua đường lạ, Thoắt thấy các ngươi long lanh như những hạt châu,
− Chẳng hay, trong, ẩn nấp bao nhiêu sự nhiệm mầu – Ta luống bồi hồi trong dạ !
Các ngươi đã để cái hôn lần đầu yêu chưa ? Cái hôn dịu dàng vô hạn mà nơi vắng vẻ, Cặp môi âu yếm, hãy còn rụt rè e lệ,
In lên trên mí các ngươi ?
Dần dần cái vết hôn ấy thấm vào, êm ái, Trong tim xuân nữ tê mê giấc mộng diễm tình; Rồi, trên môi nàng, nở một nụ cười tươi xinh,
Chờ cặp môi yêu đến hái.
Rồi sau, trên đường phố, hoặc ở chỗ người đông, Lúc các ngươi thoáng thấy dáng hình ai âu yếm, Hôn ấy lại hiện ra với nụ cười mơn mỉm
Trên hai gò má ửng hồng.
Hoặc những lúc một mình trong gian buồng hoa mỹ Xuân nữ ngồi im dưới ánh đèn xanh dịu dàng,
Các ngươi đọc những gì trên bức thơ mấy trang.
Để ai mơ màng suy nghĩ ?
Giữa đêm êm đềm thanh tĩnh, nàng vẫn ngồi im; Nhưng mỗi lời trong thơ phải chăng là một tiếng mộng, Một tiếng mộng si tình, làm bâng khuâng xúc động,
Mỗi phím tình trong con tim ?
Hỡi những cặp mắt đẹp và vô cùng yểu điệu !
Các ngươi đã tắm gội được bao nhiêu tinh sương ? Các ngươi đã trằn trọc như ta, mấy đêm trường,
Vì những cảnh, tình, bận bịu?
Các ngươi đã để rơi chưa những giọt lệ sầu,
Lúc canh khuya thiếu nữ nhớ ai trong tâm trí ? Hoặc lúc tỉnh giấc mộng, sực tìm người yêu quý,
Mà nhìn đâu chả thấy đâu ?
Các ngươi đã nhìn thấy cõi không gian trống rỗng, Lúc tâm thần lãng mạn lượn bay trên cao xanh Tìm những lạc thú viển vông ngoài cõi phàm trần,
Mà trăm năm là cái bóng ?
Phải ! trăm năm qua như một nháy của các ngươi ! Có mộng mới hưởng thêm được ít nhiều lạc thú;
Có mộng mới biết sống những phút ngoài vũ trụ, Hết mộng là hết đời người !
Ôi! Nhưng ta thường thấy một bóng mờ che phủ Những con mắt rất yêu! Ta đoán một linh hồn Âm sầm và u nhã như một buổi hoàng hôn
Lúc mấy cành hoa rơi rũ !
Phần ta, những đêm khuya trằn trọc như đêm này, Thấy các ngươi long lanh hiện ra trong khoảng trán, Như trên vùng thiên không bao nhiêu chùm sao sáng
Mà ta muốn hái trong tay !
Ta muốn hái ! hỡi sao trên giời và dưới đất ! Để gieo tung trong vũ trụ cho nở thêm nhiều; Vì nếu tắt các ngươi, cảnh giới sẽ tiêu điều,
Và trần ai câm tối mất !
X
Ta biết đâu con Mối (1) Ẩn trong khe cửa tối ! Để vì ta, chết oan
Con vật con vô tội ! Khi ta ngồi lặng im Nghe quả đất êm đềm Trằn trọc xuay luôn tối Như ta trằn trọc đêm,
Trên mặt tường xanh mát Vài con Mối rải rác
Quẩn quanh vũng ánh đèn Tìm những phù du bạt, Một mình thân Mối con Chờ đợi gì đêm hôm,
Ẩn núp trong khe cửa Biết chăng số chẳng còn ? Cửa mở đương to rộng, Hai tay ta kéo đóng;
Từ từ cánh cửa xoáy Êm ái như trong mộng.
Đêm khuya cảnh lặng im;
Gió lọt thoáng qua rèm; Bỗng tiếng gì thê thảm Trong khe cửa rỉ rên ?
Lặng lẽ ta đem nến Soi cùng khe cửa kín, Ôi thôi ! Con Mối con ! Bị cửa vô tình nghiến !
Mối con ! Ngươi chết oan ! Thịt nát và xương tan !
Ta biết ngươi đau đớn Nhìn ta lệ chứa chan ! Ta thấy ngươi run rẩy Đầm đìa ruột máu chảy, Ta ôm lòng, tỉ tê,
Chịu tội với giời vậy! Bởi ta, ngươi chết oan: Nầy một lớp tro tàn, Nầy một cành hoa héo, Mối ơi ! Nằm nghỉ an ! Đây tạm là ngôi mộ, Kẻo e đoàn kiến nhỏ Rúc bâu cái xác tanh,
Hồn Mối thêm bi khổ ! Chờ mai lúc rạng đông, Ta sẽ đưa ra đồng,
Sẽ đặt ngươi vào nắp Mà chôn ở gốc thông.
--------
(1) tức là con thằn lằn ở Trung Nam Kỳ (lézard)
CƠN DÔNG Ở NHÀ QUÊ
Cụm tre xào xạc gió mưa lung; Lướt thướt theo trâu lũ mục đồng.
Ếch nhái kêu vang ngoài miệng giếng; Bọt bèo trôi nổi giữa giòng sông.
Lụt tràn ruộng cả nhô đòng lúa; Sét đánh người gian nổ tiếng đùng.
Nước ngập bẳng bằng, mưa gió tạnh; Mặt giời lấp ló giữa thiên không.
TÌM GÌ ?
Cảnh Tây Hồ đêm hôm lạnh lẽo, Mưa gió bay, sóng réo ven bờ, Riêng ta vơ vẩn tìm thơ,
Chứ cô thiếu nữ vẩn vơ tìm gì ? Trong bóng tối, đi đi lại lại,
Tay khum che ngọn nến rẩy run; Tìm gì trên bãi cỏ non
Để đôi mắt đẹp nỉ non lệ tràn ?
Hỡi thiếu nữ ! Tuổi xuân mơn mởn; Cặp môi tươi ưng ửng đợi duyên; Tóc đeo nặng mấy mối phiền
Mà xòa rũ rợi hai bên má đào ? Người thế ấy, lẽ nào duyên phụ, Mà vẩn vơ tìm chỗ gió mưa ?
Tìm gì trên bãi cỏ tươi
Để đôi má ửng lệ rơi tràn trề ?
Sụt sùi mãi giọt giài giọt ngắn ! Tiếng mưa phùn đã vắng trên cây, Chuông chùa đã điểm canh chầy,
Lắt leo ngọn nến đã đầy vơi tim, Còn quanh quẩn bới tìm, tìm mãi ? Năm ngón tay mềm mại trắng tròn Tìm gì trên bãi cỏ non
Để đôi má ửng lệ tuôn luôn giòng ?
Tìm mặt cỏ, tìm trong chưn cỏ; Trước tìm gần, sau bỏ tìm xa; Ánh đèn soi chói như là:
Cỏ xanh xanh điếc, thờ ơ vô tình ! Nhìn mặt hồ lênh đênh sóng vỗ, Nhìn gốc cây còn nhớ mùi thơm, Rồi nhìn bãi cỏ xanh um,
Cớ sao nước mắt ứa tuôn đầm đìa ?
− Hỡi thi sĩ ! Đêm khuya mưa gió, Ta tìm ta trong đám cỏ xanh.
Mỗi chiều tan cuộc ái ân,
Chút xuân ta cũng tan dần mất thôi ! Cùng người yêu ta vui chốc lát,
Mãn cơn vui xờ xạc cơn buồn ! Còn gì trên cỏ xanh um
Mà ta chẳng để lệ tuôn luôn giòng ?
Vừa lúc chiều ta cùng tri kỷ Trên cỏ xanh, rủ rỉ gần đêm Những lời tình tự êm đềm;
Bây giờ phút ấy còn tìm thấy đâu ! Bàn tay yêu nưng niu ve vuốt,
Nụ hôn yêu dính ướt trên môi, Lả lơi bộ đứng dáng ngồi,
Lúc chiều gần đấy, mà giờ đâu xa ? Một ngày xuân của ta rơi rụng:
Bao lệ xuân ứa đượm trên cành. Ngó qua đã thấy khô tàn,
Nhìn đến chỉ thấy mơ màng trần duyên. Sáng ngày mai, còn xuân tươi lại, Nhưng xuân nay tê tái cả rồi !
Mấy lần xuân nữa thì thôi ?
Thì tan tác nốt cái đời xuân ta ?
Thi sĩ hỡi ! Đêm khuya mưa lạnh, Người tìm thơ vơ vẩn một mình; Thơ ngươi khôn hết sự tình,
Mà xuân ta chỉ chừng ngần ấy thôi ! Còn ánh giời, con vui khuây khỏa, Đến tối om, buồn bã vô cùng.
Ngồi nhìn bãi cỏ xanh um,
Thờ ơ phó mặc gió lung mưa dầm !
− Ngươi làm ta thương tâm, Xuân Nữ !
TUỔI EM BÉ
Tuổi em bé, Học phải lo. Cơm ăn no, Chữ ăn no.
Ngày hai buổi Phải chuyên cần: Học một vần, Nhớ một vần.
Đừng láu táu, Chớ ngang tàn. Chơi cho ngoan Nói cho ngoan.
Hột cơm giời, Ăn vào ruột; Tai sáng suốt, Mắt sáng suốt.
Tai chuyên nghe, Mắt chuyên thấy, Nhời thầy dậy, Chữ thầy dậy.
Thì giờ xoay
Như chong chóng, Tuổi nhớn chóng, Học phải chóng !
ĐỨC THÁNH ĐỒNG ĐEN
Tôi chưa hề thấy vị thánh thần nào to lớn như ngài
Ngài ngồi giữa gian chùa chật, cao nghiêm chễm trệ trên ngai. Trong cung vắng mờ tối ấy, không ẩn hình một con muỗi:
Da thịt ngài đều bằng đồng. Ngài trạc năm sáu mươi tuổi, Nhưng ngài đã sống ba trăm năm. Ngài còn sống đời đời. Đứng trước ngài, tôi rất kính phục, nhưng tôi rất ngậm ngùi: Dẫn trán chúng ta thật cao, hay tóc chúng ta thật trắng,
Ta không bao giờ được oai nghiêm, trường thọ như Đức Thánh. Ánh sáng ngoài giời, theo các song cửa đóng kín, tia vào,
Ngay hàng, chầu trước tấm màn đỏ. Hai bên, những chùm sao Bằng mặt gương mùi đỏ, mùi lục, mùi vàng, lô nhô nhóa.
Ngài tọa trấn trong cung này thật u minh hùng hãi lạ ! Cặp mắt ngài mở to chăm chú ngó thẳng về phương tây, Trông suốt đến biên thùy thiên địa, dòm thấu các gò mây.
Trên hai con ngươi, anh ánh chiếu một ngời xanh rung động: Tôi rùng mình, tưởng ngài sắp nghiêng đầu ngó ngoài giời rộng. Mũi ngài lớn, miệng ngài to, đều bóng loáng và đen mun;
Răng đỏ sát nhau lấp nửa dưới môi, bớ vẻ hãi hùng, Và nở như một nét cười vừa oai nghiêm vừa hiền hậu.
Chắc những lời cầu khẩn của dương gian Ngài đều nghe thấu, Vì tai ngài to và rộng. Những kẻ thế tục phàm trần,
Mà số phận hiu hẩm, kém phúc đức, gia sự phân vân; Hoặc gặp những cảnh éo le về tơ duyên, về tình ái, Đứng cúi đầu cung kính trước ngài và lâm dâm khấn vái, Dẫu những hy vọng hoặc uất ức bí mật trong tâm hồn, Mà các cô, các bà gơi khêu một mình lúc đêm hôm,
Và thành tâm đến trước tượng ngài, kêu cầu trong tâm trí, Chắc ngài cũng ban cho hạnh phúc và những điều yên ủy. Vì ngài là một đấng chí cao, chí thiện, rất quang minh: Lòng ngài rất bao la, hiểu thấu những uất ức, ẩn tình
Của những kẻ phàm yếu, hèn, đau, khổ, mà sợ uy thánh, Cho nên đời đời ngài vẫn được vạn, nghìn người tôn kính.
***
Ngài bận áo đỏ rộng, giữa thắt đai vàng đeo thanh gươm. Áo phủ xuống dưới đầu gối, để lộ bàn chưn đen mun,
Hai bàn chưn linh thiêng ấy ! Những ngày rằm và ngày hội, Tôi đã được nhìn thấy cảm động những trẻ mồ côi nhỏ, Những bà già và những cô thiếu nữ xinh đẹp, ngây thơ Hôn hít bàn chân Thánh, hoặc lấy tay vuốt ve, rờ,
Hay là với khan mùi soa, vạt áo, miếng nhung, miếng vóc, Mà họ ấp hôn vào môi, hoặc đưa lau lên đầu tóc … Những ngày ấy, Ngài là một vị đại thánh rất hiền lành;
Và người ta có nói uy pháp ngài cũng rất thiêng linh. Tấm màn đỏ vắt ra hai bên, cửa cung điện đều mở;
Ánh sáng trong sạch tỏa vào, thánh vị oai nghiêm rực rỡ; Trầm hương nghi ngút xông lên một mùi thơm diệu thanh tao, Và những lời khẩn cầu đưa lên thành một tiếng xôn xao.
Hãy xem các cụ già cung kính dâng hương hoa trên bệ, Rồi bước rụt rè quỳ phục dưới mắt ngài mà bái lễ;
Hãy xem những người đàn bà, những cô thiếu nữ đương xuân Yêu kiều diễm lệ như tiên, hai tay cầm một nén hương
Nét mặt tẩm sắc đẹp tươi hồng, và vô cùng yểu điệu. Ngước nhìn lên ngai cao, môi lẩm bẩm những tiếng ri ríu; Hãy lắng tai nghe vô số những lời cầu nguyện thiết tha, Với những câu van vái tầm thường nửa chữ nửa nôm na; Mới biết: họ tưởng tượng tâm trí ngài vô cùng cao rộng.
Và dẫu thánh thể đúc toàn đồng, Ngài cũng phải cảm động. Đứng trước tượng khổng lồ ấy, vừa oai vệ, vừa khoan dung, Và cách phô diễn lòng tín ngưỡng rất thảm thiết não nùng Của trăm nghìn người, tâm trí tôi phải bùi ngùi lai láng
Bởi một cảm giác lạ lùng và một tình thương vô hạn.
***
Thành tâm đến đây, là những tâm hồn đau khổ ưu sầu, Những kẻ cô đơn, hèn yếu, không biết nương tựa vào đâu,
Sống trên đời như lá thuyền bị trăm nghìn lớp sóng đánh, Họ phải ngửa mặt giơ tay lên van kêu Giời, Phật, Thánh. Họ đói ! họ khổ ! họ đau ! con họ ốm ! nhà họ nghèo !
Bởi người phàm không an ủy được những nỗi họ kêu reo, Họ phải dâng một đĩa hoa, vài nén hương, một cặp nến, Khẩn Đức Thánh, Quan Công, may các ngài soi xét đến. Tôi không dám chê họ ngu dốt, hay cười họ dị đoan;
Tôi thương những kẻ khốn khổ hoặc có tâm sự bàng hoàng, Bởi không thể tin ở mình, cũng không thể tin người khác Cho nên vận mệnh trần duyên cứ Phật-Giời mà phú thác !
TIẾNG QUẠ KÊU
Lần đầu hai ta hôn nhau, Đứng so đôi trên cành giâu Một cặp bồ câu trắng gáy. Em buồn, và em ngẩn ngơ Hỏi anh: “Mình yêu em ơi,
Ngày ta yêu nhau được mấy?”
Anh trông mắt em mơ màng, Anh năn nỉ em: “Em Lang !
Sao em nhìn anh thảm thế !” Ôm anh, em hôn mê anh, Rồi sao tự nhiên long lanh Mắt em ứa hai hạt lệ!
Hai ta yêu nhau lần đầu; Lần đầu hai ta hôn nhau, Một cặp bồ câu trắng gáy: Ái tình ru bên tai ta,
Ta sẽ yêu nhau đến già
Như cặp bồ câu trắng ấy !
Nhưng em vẫn cứ không vui, Em bảo anh: “Mình yêu ơi, Ái tình sẽ tang thương lắm ! Em không muốn cặp bồ câu
Cùng nhau gáy trên cành giâu Lúc hai ta yêu đằm thắm !”
Lúc ấy anh không hiểu em; Vì hai ta suốt mấy năm,
Yêu nhau, hôn nhau mê mẩn. Buổi sáng sớm, bóng chiều hôm, Ta khoái lạc trong tâm hồn
Bởi những mộng tình vơ vẩn.
Rồi khi hai ta biệt ly Ôm vào nhau, và lâm ly
Em khóc, mà anh cũng khóc. Dẫu non nước cách nghìn trùng, Tâm hồn ta vẫn ở chung
Khăng khít một lời tơ tóc.
Từ hôm ấy đến hôm nay, Cặp bồ câu trắng đã bay. Anh chờ mà chim không lại. Hôm qua, tự nhiên anh buồn, Thầm thì suối lệ ứa tuôn
Như tràn cả ra sơn hải !
Chiều tối, anh nghe ngoài vườn, Không phải tiếng gáy du dương, Mà tiếng thảm sầu quái lạ.
Anh ra dạo ngoài vườn giâu, Anh trông lên ngọn cây giâu: Con quạ đen buồn não quá !
Quạ nó kêu những tiếng gì ? Hay là những tin sầu bi ?
Hay là những lời tình ái ? Anh không hiểu ý con chim, Như anh đã không hiểu em, Lúc cặp bồ câu trắng gáy.
Bây giờ anh đã hiểu rồi, Ôi vong hồn Lang em ơi !
Lời em thiêng chi lắm nhé ! Anh không ngờ cuộc tình duyên Rất khăng khít của chúng mình, Cũng đảo điên như giâu bể !
GÁI NGHÈO
Em biết duyên em chẳng được lành, Đã sinh dưới bóng túp lều gianh, Cơm dưa nước lã vừa nuôi miệng, Áo vải quần nâu đủ kín thân.
Hai chút má đào là đắt đỏ,
Trăm năm mặc kệ với giời xanh ! Lạnh lòng chịu vậy năm canh vắng, Chẳng được như ai đốm lửa tình !
ĐỀN ĐỔ
Cũng như những tháp Chàm ấy là những linh từ đời xưa, Đứng chót vót trên gò cao, nguy nga giữa cảnh đồng nội, Mà nay cô đơn ủ rũ đầy vơi sương nắng gió mưa,
Đền đã tan tành đổ nát như đa mang nhiều ác tội ! Những đền miếu ấy, một dân tộc tôn trọng các linh thần Đã dùng tài nghệ thuật và long tín ngưỡng mà kiến thiết,
Tưởng phải vững bền cao đẹp mãi mãi dưới vùng trời xanh, Chứ ai ngờ tháp đã đổ mà giống Chàm đã tiêu diệt !
Dần dần những đêm lạnh lẽo, hoặc những buổi trưa mùa hè Một miếng gạch tự nhiên rời mặt tường, rồi rơi trên cỏ; Tiếng rơi vẫn kêu mà giời đất vẫn điềm tĩnh không nghe.
Thương thay! Cái đền linh xưa, nay còn là cái tháp bỏ ! Cũng một kiếp với tháp Chàm ấy. Bạn yêu của ta ơi !
Cái đền Thân Hữu mà hai ta đã có công tạo tác.
Chúng ta cũng muốn để một kỳ công vững đẹp muôn đời. Không ngờ đền ấy đã phải đổ, mà tâm hồn ta tan tác !
Chiều thu ấy, hai ta thấy bâng khuâng chung một cảm tình. Tâm hồn hai ta rung động như nhau, lan man khoan khoái; Hai tâm hồn trẻ trung, thanh cao, trong trắng như thủy tinh, Chúng ta không muốn gửi cho tiếng gọi kêu của Tình ái.
Vì hai ta vẫn sợ Ái tình nó bạc bẽo hung tàn.
Ái tình không phải linh thần của những tâm hồn cao nhã, Những hạnh phúc nó cho ta, chỉ như cái kiếp hoa tàn: Sớm thơm tươi nở trên cành, chiều rủ rơi trên nấm mả.
Chúng ta đã nghe những tiếng du dương gáy trước ái tình, Của những cặp bồ câu đương âu yếm mơ màng hạnh phúc. Chúng ta thấy họ vui, đùa, ca, hát, dưới cảnh trăng thanh, Trên bãi bể, giữa rừng thông, đầu cành mai, bên khóm cúc.
Nhưng được bao nhiêu ngày ? Rồi cảnh đời, sương phủ, gió lung; Chúng ta không còn nghe những lời Ái tình nữa;
Trên bàn thờ Tình ái, khói hương đã tắt ngấm lạnh lùng Mà trong đống gio dĩ vãng, khêu đâu ra một đóm lửa ! Hai ta đã đem nhau đi xa, ngoài dục vọng phàm trần; Đã xây một đền đài tốt đẹp trên đỉnh gò Lý tưởng: Chúng ta đã cùng đem hai tâm hồn ta đương tinh anh
Hiến thờ Tình Thân Hữu để cầu một cuộc đời cao thượng. Chúng ta cũng có nghị lực và tín ngưỡng như người Chàm, Cũng tưởng những miếng vôi, viên gạch của ta đều rắn rỏi, Và sẽ lâu bền mãi mãi cùng tuế nguyệt giang san;
Ngờ đâu ! đài miếu năm xưa, nay còn là cái tháp bỏ ! Dần dần những khi gió hạ, mưa xuân, chiều thu dịu dàng. Hoặc những khi cùng nhau hai ta ngồi im trên bãi bể,
Ta cùng nghe một tiếng đổ, tan trong cái rỗng không gian: Một chút ít đền đài ta đã tự nhiên rời rạc bễ !
Thôi vậy ! thì bỏ mặc đấy cho nắng dọi, cho mưa dầm, Cho bao nhiêu cái mộng vẩn vơ nằm yên dưới rêu cỏ. Rồi cánh đồng dĩ vãng lui dần trong bóng tối âm thầm,
Thỉnh thoảng ta hãy thắp cây hương hắt hiu trong tháp cổ.
TÌNH CÂM
Mỗi lúc ta trông thấy nàng, Hồn ta vơ vẩn mơ màng, Thơ ta bay ra man mát.
Mỗi lúc nàng trông thấy ta, Má nàng ưng ửng như hoa, Nàng ngó lãng ra nơi khác.
Rồi lúc không trông thấy nàng, Ta buồn bã trong tâm can, Tương tư vẩn vơ trong trí.
Rằng lúc không trông thấy ta, Nàng ngồi nghĩ gần nghĩ xa, Buồn lòng như ta không nhỉ ?
Ta không biết nàng tên gì,
− Cái tên có quan hệ chi ! – Ta ưa sắc đẹp ngấm ngầm. Ta ưa đôi mắt mơ màng.
Ta ưa hai má dẻo dang,
Lúc trông thấy ta, đỏ thắm !
Ta yêu mấy sợi tóc mai, Yêu kiều rũ rợi bên tai. Ta yêu cặp môi hồng tía. Ta chỉ ao ước bông lông: Nàng bế ta ngồi vào lòng,
Lặng im, cho ta ngắm nghía.
Lúc ta đi qua trước nhà, Tựa cửa, nàng nhìn theo ta, Má nàng ưng ửng như thế, Mắt vẫn như thế, mơ màng,
Như nghĩ những chuyện lan man, Phải chăng chuyện đời dâu bể ?
Nàng không biết tên tuổi ta, Mỗi chiều, ta đi thoáng qua Trước mắt nàng, như cái bóng.
− Vì ta là một tâm hồn
Bát ngát như bóng hoàng hôn Trên đồi cao, trên bể rộng.
Mỗi buổi chiều, nàng với ta Cùng gặp trên bờ Hồng Hà.
Mặt nước, chân giời phẳng lặng. Được ngồi bên đóa hồng nhan, Ta nhìn cặp mắt bàng hoàng, Ta nhìn, tên mê, im lặng.
Cặp mắt, rưng rưng nhìn ta, Đầy bao nhiêu tình thiết tha
Trong những hạt lệ trong trắng ! Ta đặt cái hôn dịu dàng
Trên hai mi mắt mơ màng: Châu lệ tan ra, im lặng.
THƠ CỦA TA
Ta đem thơ bán cho đời
Ngày nay bán lạng bán cân, sau bán từng lô từng bó ! Đời chẳng thèm mua đến thơ ?
Thì ta rãi tung cho giời, cho giăng, cho mây, cho gió !
N.V.
N.V.
(In tại nhà in Tân Dân, 1934.)
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
LẠI NGUYÊN ÂN sưu tập+ bản Việt ngữ PHẠM TOÀN
-----------------------------------------------------------------------------
LẠI NGUYÊN ÂN sưu tập+ bản Việt ngữ PHẠM TOÀN
-----------------------------------------------------------------------------