Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017

về một nhà văn trong"'nhóm Sáng Tạo": DOÃN QUỐC SỸ [ 1923- ] -- blog phan nguyên

Friday, 29 August 2014

Doãn Quốc Sỹ













Doãn Quốc Sỹ

- bút danh khác: Dương Quan Sơn
(17/02/1923 - .........) Hà Đông [ nay Hà Nội]

- nhà văn, nhà giáo










Nẻo đời gió bụi kỳ khu
Biết ai còn mất tình thu võ vàng









Tiểu sử
 


Doãn Quốc Sỹ là một nhà văn, nhà giáo nổi tiếng tại miền Nam Việt Nam từ trước 1975. Ông đã dạy học tại các trường Trung học như Nguyễn Khuyến (Nam Định) Chu Văn An (Hà Nội) Trần Lục (Sài Gòn). Làm Hiệu trưởng trường Trung học Hà Tiên, Giáo sư trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn, Giáo sư trường Đại học Văn khoa Sài Gòn và Đại học Sư phạm Sài Gòn
Giữa thập niên 60, ông du học tại Hoa Kỳ về ngành Giáo dục và trở về nước dậy học cho tới 1975.

Doãn Quốc Sỹ vừa dạy học vừa viết văn. Ông di cư vào Nam năm 54 và sống tại Sài Gòn. Năm 56, sáng lập Nhà xuất bản Sáng Tạo và tạp chí văn nghệ cùng tên với
Ông là tác giả khoảng 25 tựa sách, nổi tiếng nhất là bộ trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau gồm 4 tập: Ba sinh hương lửa, Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, Tình yêu thánh hóa, Đàm thoại độc thoại.
Bộ tiểu thuyết này đã được ví như "Chiến tranh và hòa bình" của Leo Tolstoy. 
Sau biến cố 1975, ông bị đưa đi "cải tạo" tại trại Gia Trung (Tây Nguyên) và giam cầm hai lần với tội "viết văn chống phá cách mạng", tổng cộng 14 năm tù trước khi được phép di cư sang Hoa Kỳ theo diện O.D.P, đoàn tụ với con trai năm 1995.

Ông đã lập gia đình lúc trẻ với bà Hồ Thị Thảo, con gái nhà thơ trào phúng Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), và là anh ruột Nhạc sĩ Doãn Nho, một người cộng sản nổi tiếng miền Bắc với những ca khúcTiến bước dưới quân kỳ, Năm anh em trên một chiếc xe tăng v.v.
Doãn Quốc Sỹ hiện đang sống tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ, vào cái tuổi những người xưa nay ..... rất hiếm.












































Tác phẩm đã xuất bản 
(danh sách chưa đầy đủ)










1
Sợ Lửa
(1956)










2
U Hoài

(1957)













3
Gánh Xiếc
(?)
(chưa tìm thấy bìa sách)
(1958)












4
Gìn Vàng Giữ Ngọc
(?)
(Chưa tìm thấy bìa sách)
























5
Dòng Sông Định Mệnh
(1959)





















6
Hồ Thùy Dương

(1960)













7
Trái Cây Đau Khổ
(?)
(Chưa tìm thấy bìa sách)
(1963)
















8
Người Việt Đáng Yêu
(1965)














9
Cánh Tay Nối Dài
(1966)

















10
Đốt Biên Giới
(1966)












11
Sầu Mây
(1970)












12
Vào Thiền
(1970)





































ảnh: [ Trần] Cao Lĩnh 














13
Trường thiên tiểu thuyết

Khu Rừng Lau
4 tập



1- Ba Sinh Hương Lửa
(1962)






14 2- Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến
(1964)






15 3- Tình Yêu Thánh Hóa
(1965)





16 4- Đàm Thoại Độc Thoại 
(?)
(chưa tìm thấy bìa sách) 
(1966)










































17
Văn Học và Tiểu Thuyết
I & II































































Sách in tại Hoa Kỳ
với nxb Văn Nghệ






18
Mình Lại Soi Mình





 











19
Người Vái Tứ Phương


 












20
Dấu Chân Cát Xóa


















21
Cò Đùm






Thay Lời Tựa
dành cho tập truyện Cò Đùm của nhà văn Doãn Quốc Sỹ 



Hoàng Khởi Phong 


"Ngã kim nhật tại tọa chi địa
Cổ chi nhân tằng tiên ngã tọa chi"


Với tôi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là bậc trưởng thượng. Khi tôi ra đời, ông đã bước vào tuổi hai mươi, đã hăm hở lên đường cứu nước. Bởi vì năm 1943, dân tộc Việt chúng ta có tới hai cái ách ngoại bang tròng vào cổ. Trước tiên là người Pháp, đã đặt nền bảo hộ hơn nửa thế kỷ đầy máu. Kế đó Đệ Nhị Thế Chiến đã mang Quân Đội Nhật vào trú đóng trên đất nước chúng ta, rêu rao chiêu bài Đại Đông Á. Nhưng mà người Nhật cũng không khác gì Pháp, cái họ mang tới không phải nền độc lập, sự thịnh vượng, mà chỉ thêm vào những dòng máu khác. Đó là chưa kể tới những cái ách, của chính người Việt choàng lên cổ lẫn nhau. Nên vì đó bất cứ một thanh niên nào nhiều nhiệt huyết, thao thức tới vận mệnh tổ quốc, đều không sớm thì muộn cũng sẽ hăm hở lên đường như Doãn Quốc Sỹ. 
Nên tôi không lấy làm lạ, nếu như nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã có một thời gian bôn ba trong vùng kháng chiến. Khi người ta còn trẻ và lòng đầy lý tưởng, ngay cả việc hy sinh tính mạng cũng là một điều nhỏ, thì sá gì những chặng đường rừng, những ngọn đồi cao, những con sông rộng. Khi người ta còn trẻ và tràn đầy những giấc mộng lớn, thì sá kể gì bụng đói, trên thân người một manh áo mỏng, một chiếc quần vải thô. Bởi vì người ta đem thân ra đi, để sống muôn đời. Mưa và nắng gió đường xa chỉ có thể làm cho lý tưởng vững chắc hơn, chứ không bao giờ làm cho nhụt đi những tin tưởng mãnh liệt vào tương lai của tổ quốc. Chọn lựa vào đời đầu tiên của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, là tham gia vào bất cứ một tổ chức nào, đi trên bất cứ con đường nào, miễn sao cứu được tổ quốc ra khỏi cảnh khốn cùng. Ông đã đem tuổi thanh xuân của ông, cống hiến cho cuộc chiến đấu một mất, một còn của tổ quốc, như bất cứ một người tuổi trẻ nào, ý thức được bổn phận của một công dân trong một xứ sở bị trị. Trước Doãn Quốc Sỹ nhiều thế hệ, những người thanh niên đã ra đi. Sau Doãn Quốc Sỹ sẽ còn nhiều thế hệ nữa tiếp tục lên đường.




Thế nhưng chỉ vài năm sau, Doãn Quốc Sỹ đã mơ hồ nhìn thấy con đường ông chọn, rồi ra sẽ không đưa tổ quốc tới được một tương lai tươi sáng hơn, nếu không muốn nói là tăm tối hơn, tàn bạo hơn so với sự cai trị của người ngoại chủng. Chính vì đó mà ông đã trở về thành, yên tâm đến trường, hoàn tất việc học mà ông đã bỏ dở. Ông đã phải bỏ lại đằng sau, cuộc chiến đấu ông đã chọn lựa, để rồi năm 1954, ông đã dắt díu gia đình vào Nam, chiêm nghiệm lại sự thất bại của thế hệ ông trước những đòi hỏi của lịch sử. Chính vì đã vào thành, bỏ dở lý tưởng ông đã chọn trong lúc tuổi thanh xuân, ông đã phải tìm con đường khác, để hoàn thành giấc mộng cũ. Đó là một trong những lý do khiến ông trở thành nhà văn sau này. Bởi vì văn chương chính là một sức mạnh tiềm ẩn, người ta không thể nhìn thấy, không thể cân đo, đong đếm được sức mạnh của văn chương. Nhưng người ta cảm nhận được sức mạnh của văn chương, chữ nghĩa.







2- Nhiều năm sau tôi bắt đầu thích đọc sách. Biết thế nào là những cuốn sách hay, và những cuốn sách biết hay không biết phân biệt thế nào là văn chương và thế nào là những chuyện hoang đường tưởng tượng. Tôi đã đọc Doãn Quốc Sỹ và mơ hồ nhận biết: Một tác phẩm lớn mở lối tới tương lai, khác với một cuốn tiểu thuyết hay, phục vụ cho thị hiếu bình thường của người đọc. Một tác phẩm kích thước, có thể thay đổi số phận nhiều con người, thường khi là một cuốn sách bán không chạy. 

Khi nhận biết được những điều này, tôi bước chân vào tuổi hai mươi. Tuổi của Doãn Quốc Sỹ khi ra đi tham gia trận chiến của ông. Thế hệ tôi lớn lên có một trận chiến khác. Nhưng rồi trận chiến nào cũng giống trận chiến nào. Cũng súng đạn ngoại bang, cũng máu xương dân Việt. Có khác chăng giữa hai trận chiến là diện mạo quân thù. Khi Doãn Quốc Sỹ chong mũi súng về phía đằng trước, thì trước mặt ông là những người thực dân Pháp da trắng, cùng những người lính đánh thuê da mầu. Phía trước mũi súng của tôi là những người đồng chủng, tệ hơn nữa có thể là những anh em con chú, con bác đã không di cư vào Nam như gia đình tôi. Nói một cách khác, thế hệ chúng tôi tiếp tục trận chiến bỏ dở của thế hệ Doãn Quốc Sỹ. Riêng Doãn Quốc Sỹ, ông đã chọn trận chiến của riêng ông, là gióng lên những thất bại của thế hệ ông, nhằm cảnh giác thế hệ chúng tôi trong thế trận mới.





Nhà văn Doãn Quốc Sỹ đến với tôi có một vị trí đặc biệt. Trước tiên do những thất bại của ông và của thế hệ ông, những thất bại vì không thể nhắm mắt đồng lõa với sự tàn bạo của con người, dành cho con người. Ông đã bỏ lại đàng sau, cái hàng ngũ đã reo rắc kinh hoàng, tang tóc cho một nửa nước phương Bắc. Ngay khi đặt chân xuống miền Nam, ông ngồi xuống bàn viết, và thế hệ chúng tôi nhận được bức thông điệp đầu tiên của ông. Trong tư cách một nhà văn, ông cổ súy cho: "Lòng nhân ái". 

Để chống lại sự tàn bạo đến phi nhân của kẻ địch, võ khí mà nhà văn sử dụng chính là lòng thương yêu. Năm mười tám tuổi, khi đọc "Dòng sông định mệnh - Chiếc chiếu hoa cạp điều" của ông, tôi bắt được những ý nghĩ trong lành trong từng trang sách.

Nói một cách khác trong đời chiến đấu khá ngắn ngủi của ông, ngay khi phát giác những người sát cánh bên cạnh mình, là những con người bạo tàn với đồng loại, với ngay cả đồng bào của chính mình. Khi phát giác ra điều này, nhà văn phải lập tức quay lưng lại với quyền lực, không những quay lưng lại mà còn phải lớn tiếng tố cáo, chống lại những bạo lực này, bằng cách ghi lại những ao ước của mọi người, thể hiện những ao ước này bằng lòng thương yêu, nơi mọi nhân vật trong tác phẩm của mình. Tính nhân bản luôn là nét chính, trong các tác phẩm đầu tiên của nhà văn Doãn Quốc Sỹ.

Năm 1963, tôi hai mươi tuổi, nằm trong quân trường Thủ Đức. Tôi đọc cuốn đầu của bộ trường thiên tiểu thuyết bốn cuốn"Khu rừng lau", của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Bên ngoài hàng rào quân trường, xã hội miền Nam đang trải qua những cơn bão tố chính trị. Thời đó ông chỉ mới hoàn tất cuốn đầu: "Ba sinh hương lửa - 1962", để rồi những năm sau, trôi nổi trong đời quân ngũ, lúc nào tôi cũng quan tâm đến các phần còn lại của bộ trường thiên tiểu thuyết này: "Người đàn bà bên kia vĩ tuyến, 1964 - Tình yêu thánh hóa, 1965 và Đàm thoại độc thoại, 1966". 





Cách ông đặt tên cho toàn bộ trường thiên, cũng như từng phần cho thấy trong tác phẩm này, nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã bầy trước mặt ông quá nhiều vấn đề, quá nhiều mong ước. Éo le thay giải quyết các vấn đề này, cũng như làm đầy những ước mơ này, không nằm trong tay các nhà văn. Đau lòng hơn thế, suốt trong hơn hai thế kỷ cận đại, chưa bao giờ số phần của dân tộc Việt Nam, nằm trong tay dân tộc Việt Nam. Trong bộ trường thiên này, người đọc nhận thấy những biến đổi của chính trị, xã hội bên ngoài, khiến cho Doãn Quốc Sỹ nhìn lại chỗ đứng của ông. Ông đã chọn lầm vị trí khi rời nhà ra đi, tham gia kháng chiến. Chẳng lẽ ông lại lầm một lần nữa?





Một đàng là những bạo tàn đến từ phương Bắc, một đàng là những ung thối của miền Nam. Nhà văn đứng giữa cô đơn biết dường nào. Doãn Quốc Sỹ đã ký thác tâm trạng băn khoăn của chính ông, đan những suy nghĩ dầy dặc của ông, vào hành động của các nhân vật trong bộ trường thiên này. Ông vẫn giữ được trọn vẹn lòng nhân ái cũ, nhưng chen vào đó là những phút bâng khuâng, những câu hỏi về ngày mai. Giọng văn tha thiết với người, với đời còn đó, nhưng niềm tin bạt núi vào tương lai quả có sứt mẻ khá nhiều. Trong cung cách một nhà giáo, đào tạo những nhà giáo khác của ngành Sư Phạm, may thay ông còn được một ngõ thoát khác: Ông đã trực tiếp chuyển những chân thành nơi ông, sang những người học trò của ông nơi ghế nhà trường, ủy thác cho những nhà giáo tương lai việc trao truyền lại "thông điệp nhân ái", mà ông đã dùng những tác phẩm văn chương của ông như một phương tiện để truyền đạt.






3- Năm 1975 ập tới, thế hệ của tôi mang về cho tổ quốc một kết quả tương tự như thế hệ Doãn Quốc Sỹ. Thế hệ của ông tuy thất bại, dẫu sao nữa vẫn còn giữ được cho chúng tôi một khoảnh đất tự do, một chút vốn liếng cuối cùng. Thế mà thế hệ chúng tôi nỡ lòng nào đánh mất cái vốn liếng cuối cùng này, để đến nỗi toàn bộ xứ sở chìm trong tù ngục. Tháng Tư năm 75, khi những người Cộng Sản ngoài Bắc tràn vô chiếm lãnh Sài Gòn, Doãn Quốc Sỹ đã không may mắn như năm 54. Ông ở lại và nhận lấy hậu quả nơi những dòng chữ chuyên chở lòng thương yêu của ông. Ông bị Cộng Sản giam giữ cùng với nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo của miền Nam. Nhiều người đã nằm xuống trong hàng rào, nhiều người được phóng thích, nhưng khi ra khỏi cổng nhà giam, chỉ còn là một thân xác bất động, thân nhân chỉ còn một thời gian rất ngắn kịp chạy ma chay. Tha về để trại giam tiết kiệm được một xuất cơm mỗi ngày, vài viên thuốc hết hạn, và một vài miếng ván đóng quan tài.


Cũng như bao người khác, thoạt mới bị giam giữ Doãn Quốc Sỹ bị bao trùm bởi sự sợ hãi. Nhưng nhờ đã có kinh nghiệm với người Cộng Sản trước kia, và nhờ ý chí mạnh ông đã qua khỏi được giai đoạn kinh hoàng khi mới bị bắt giam. Ông tiết kiệm từng hơi thở, gìn giữ mỗi cử chỉ, cốt để cho những người quản giáo không có cơ hội xúc phạm tới nhân phẩm của ông. Ông hít sâu vào lồng ngực, thở ra chậm chạp, như thở của một tu sĩ trong cơn tọa thiền. Vả lại nhà văn là những người có khả năng phân thân, có thể nhẩy lùi lại quá khứ, sống cuộc đời trăm năm trước, hay phóng mình tới xã hội của trăm năm sau, do đó thân tuy bị giam trong ngục tối, nhưng hồn thì ở cuối chân trời. Tuy bị bóng tối bao phủ, nhưng trong mắt nhìn của nhà văn, ông bắt gặp những mầu sắc tươi đẹp của ngày mai.



Doãn Quốc Sỹ là một trong những nhà văn của miền Nam được "chiếu cố" kỹ nhất. Nếu như trước kia ông không về thành, với khả năng của ông, có thể ông đã là một trong những người di rao giảng chiến thắng. Nhưng hơn hai chục năm trước, ông đã chọn vị trí cho riêng ông, ông đã đứng trong hàng ngũ của kẻ hôm nay chiến bại, nên vì thế mà những tác phẩm ông viết, đã bị những người được gọi là "nhà văn" xăm soi từng chữ, từng dòng. Người ta dùng kính lúp chiếu lên từng cái chấm, từng dấu phẩy trong những trang sách này, mong tìm tòi gán ghép cho nhà văn, những tội danh không tưởng. Song song với việc khai báo trong những lần làm việc với "chấp pháp", lúc nào ông cũng nghĩ tới việc sử dụng ngòi bút khi ra tù. Chính vì vậy mà những năm đầu 80, sau khi ông được thả lần đầu, độc giả hải ngoại được đọc tác phẩm "Đi" của "Hồ Khanh", từ trong nước chuyển ra hải ngoại. Hồ Khanh chính là bút hiệu "viết chui" của nhà văn Doãn Quốc Sỹ. Trước sau ông bị bắt đi thả lại nhiều lần. Ông bị giam hơn 10 năm, và đặt chân tới Mỹ tháng Hai năm 1995. Ông đã 72 tuổi, đủ để bước vào cái tuổi mà các cụ cho là thất thập cổ lai hy. Ngay khi đặt chân xuống vùng đất mới, con người nhà văn trong ông sống lại, ông làm quen với những độc giả cũ của ông với ba tác phẩm: "Mình lại soi mình, Người vái tứ phương, Dấu chân cát xóa" mà trong đó có cuốn "Dấu chân cát xóa" là một tác phẩm được viết vào năm 1974, chưa kịp mang đến nhà in thì tai họa đã ập xuống đầu cả nước. 
Những ai đã từng yêu Doãn Quốc Sỹ, nhận ngay ra văn phong của ông trong ba tác phẩm này. Ông là một ngòi bút dùng để tuyên dương điều thiện, cái đẹp, thế mà ông bị giam hãm trong một vùng đất mà tính ác và điều xấu bao trùm tới khóm cây ngọn cỏ. Thêm vào đó gần hai chục năm đắm chìm trong suy nghĩ, không có dịp cầm bút, nên cái nhịp của các tác phẩm này chậm chạp, các nhân vật ít linh hoạt hơn, so với những nhân vật trong các tác phẩm trước kia của Doãn Quốc Sỹ. 



4- Tác phẩm mới nhất của nhà văn Doãn Quốc Sỹ có tên là "Cò Đùm". Đây là một tác phẩm mới mà cũ, bởi vì ông đã viết truyện ngắn này vào năm 71. Cuốn sách được ông quyết định mang in sau khi ông đã hít thở không khí tự do của nước Mỹ chẵn tròn một năm. Trong một năm đó, gót chân ông đã vân du hai ba đại lục. Ông đã nhìn thấy tận mắt, đã nghe tận tai, đã thấy thế nào là hoan hô, đả đảo. Ông có dịp quan sát từ đối cực này sang đối cực khác. Những năm trong tù giúp ông có thời gian nghiền ngẫm lịch sử. Ông chiêm nghiệm được một điều: Trong các cuộc biến thiên của lịch sử bất lợi cho đất nước, trong mọi cuộc chiến tranh, đặc biệt là trong các cuộc nội chiến, lớp người thiệt thòi, khổ đau nhất là những nông dân, mà nhân vật "Cò Đùm" là một thí dụ. Nhưng cũng chính những người nông dân này có sức chịu đựng bền bỉ nhất. Chính những người nông dân này, đã oằn vai sốc vác gánh nặng của lịch sử trong những thời khoảng đen tối nhất. Họ là những mạch sống ngầm của dân tộc, hệt như những mạch nước do địa thế không thể chẩy lộ thiên, đã ngấm xuống và chẩy ngầm trong lòng đất. Khác với dòng nước sông Hồng đỏ ngầu máu địch, họ là những cái giếng trong cho mỗi một ngôi làng. Trong những lũy tre xanh, mỗi một ngôi làng là một cứ điểm tích lũy vốn sống của tổ tiên. Dưới mái ngói của mỗi ngôi đình là một niềm tự hào riêng của từng địa phương, mà ở đó những người dân quê tuy hiền lành, nhưng bướng bỉnh duy trì những mạch đời, liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác.


Sự khôn ngoan của "Cò Đùm", không thể là cái khôn ngoan rút được từ trong sách vở. Sự khôn ngoan đó là kinh nghiệm sống của nhiều kiếp con người. Những kinh ngiệm đó không phải thứ kinh nghiệm ù lì. Mà trái lại đó là những ứng dụng đầy sáng tạo. Trong những điều kiện thật khắc nghiệt của lịch sử, quân thù giới hạn việc di chuyển, thông thương. Mỗi một ngôi làng vẫn có thể tồn tại được, cho dù không được tiếp xúc, giao thương với các làng khác. Những cải tổ nông nghiệp thường khởi đi từ dân chúng, thí dụ như cách làm khoán cho từng gia đình, là sáng tạo của người nông dân Việt Nam, trước việc làm chung hợp tác xã cái kiểu cha chung không ai khóc được ứng dụng tại Trung Cộng trong những năm của thập niên 60. Muời năm trước Sài Gòn là một thành phố buồn thảm, như một cái cây trụi lá trong mùa đông, hiện nay đã có những tàn lá xanh, tuy chưa phải là mùa xuân, nhưng ít ra thành phố đã có mầu sắc. Sự thay đổi này được khởi đi từ dân chúng, không phải bởi những sắc lệnh "đổi mới" được ban bố từ trên xuống. 


Hãy tưởng tượng những "Cò Đùm" của đất nước chúng ta, trong thời Bắc thuộc, khi chưa có bà Trưng, bà Triệu, Phùng Hưng, Triệu Quang Phục... cho tới khi lịch sử sản xuất một Ngô Quyền. Thế rồi trên dòng trường giang của lịch sử, khi nòi Hán với các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh xâm lăng từ bên ngoài, mà nước Việt chưa kịp có những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung... Rồi gần chúng ta hơn nữa, trong thời Pháp thuộc, cái bạo tàn của thực dân được hỗ trợ bởi sự nhu nhược của triều đình, cộng thêm với sự nhũng lạm của các tham quan đã khiến cho dân chúng phải gầm mặt mà sống. Phải sống mà chờ một người anh hùng áo vải của ngày mai. Để có thể sống còn khi mà lịch sử còn đang u u, minh minh, những lũy tre làng hữu hiệu hơn các đô thị. Mỗi một ngôi làng là một cứ điểm đơn độc lặng lẽ sống, kiên nhẫn chờ, cho đến khi bóng dáng người anh hùng thực xuất hiện, bởi vì hơn bao giờ hết thời đại của chúng ta có quá nhiều anh hùng giả. Khi những người của lịch sử xuất hiện, thì ngàn vạn ngôi làng, ức triệu con người như "Cò Đùm" ngẩng mặt lên, nhất tề đứng dậy xếp hàng sau lưng người của muôn đời dựng lại lịch sử. Hãy tưởng tượng những "Cò Đùm" hôm nay, đang cúi mặt xuống, sống để mà sống. Ôi những người nông dân sông Tiền, sông Hậu, những người nông dân Nam Định, Thái Bình... Đã bao đời nay họ sinh ra để làm nông dân, không phải để làm đảng viên. Họ có thể bị chóa mắt bởi những lời phỉnh phờ, bởi những thủ đoạn của những người thực dân xâm lược, bởi những ông quan khệnh khạng trong triều, bởi những người làm chính trị nhiều thủ đoạn, và bây giờ là những người đảng viên Cộng Sản u tối đầy bạo lực. Họ có thể bị lừa năm, mười, hai mươi năm, và rồi cái vốn sống tiềm ẩn của bao nhiêu đời tích lũy, sẽ giúp họ giữ được bản chất hiền hòa của tiền nhân, nhẫn nhục sống chờ một ngày mai lịch sử thăng hoa, và muôn triệu con người có một kiếp người. Những người nông dân, những "Cò Đùm" của đất nước hiện nay, không có phương tiện để phản đối như chúng ta tại hải ngoại, không có báo, không có đài phát thanh, truyền hình, không có những diễn đàn cờ quạt, biểu ngữ, bích chương, khẩu hiệu. Cũng không có quần áo đẹp trịnh trọng phát biểu trước những dẫy micro, tuôn ra những lời nói kêu mà rỗng, hay những lời đả kích cho sướng miệng. Đã nhiều năm nay, tôi thấy những bài diễn văn của chúng ta, chỉ vang vang trong các hội trường, trong các góc phố, nơi các địa điểm tổ chức mít tinh, biểu tình. Những bài diễn văn của chúng ta hệt như những viên sỏi ném xuống một ao bèo, chỉ tạo được vài gợn sóng lăn tăn, rồi trả lại sự phẳng lặng cho mặt nước. Đã muôn đời nay, nông dân là những lớp sóng người, nhấp nhô theo vận nước. Họ làm nên sức mạnh chịu đựng trong mọi cơn khốn cùng của lịch sử, để rồi khi mạch sống dân tộc vươn lên, những lớp sóng người này cũng không được hưởng những vinh quang. Cái mà họ cần, chính là một cuộc sống ấm no hơn, con người ăn ở với nhau tử tế hơn, nhân ái hơn. "Cò Đùm" là một tập truyện ngắn, đã được nhà văn Doãn Quốc Sỹ viết không phải để phô diễn văn chương, mà để nói lên những chiêm nghiệm của ông trước những cơn ba đào của lịch sử, như hầu hết những tác phẩm cũ của ông. 

Cách ông viết bây giờ, là lấy ngón tay chỉ mặt trăng. Hãy chú trọng tới mặt trăng, còn ngón tay chỉ là phương tiện. 



5- Ở vào tuổi thất thập cổ lai hy, những tác phẩm mới của nhà văn Doãn Quốc Sỹ quả đúng là "Văn Dĩ Tải Đạo". Trong văn chương, ông chống lại mọi guồng máy làm cho sức sống của dân tộc bị trì trệ. Bất kể guồng máy đó thuộc về phía nào. Ông viết từ tốn, không khoa đại ngôn ngữ, song thái độ của ông là một thái độ quyết liệt với bạo lực và tăm tối. 
Với tôi nhà văn Doãn Quốc Sỹ là một bậc trưởng thượng. Trên con đường văn nghiệp, ông đã khởi hành trước tôi 20 năm. Với tên tuổi, và những tác phẩm ông đã đóng góp với dòng văn học gần nửa thế kỷ nay, ông không cần một bài tựa. Bài viết này nghĩ cho cùng chỉ là những lời cám ơn, của một người khởi hành sau ông một khoảng thời gian, cách ông một thôi đường. Trong hành trình tiến tới tương lai, có thể ông sẽ nằm xuống trước tôi. Điều quan trọng chính là những nhát búa mở đường của ông và của thế hệ ông để lại, đã giúp cho hậu sinh chúng tôi tiến về phía trước thêm được một khoảng cách. Tôi tin rằng thế hệ của tôi cũng sẽ làm những việc tương tự, phóng những nhát búa, phạt những đường dao khác tiến tới phía trước. 
Tôi cầu chúc nhà văn Doãn Quốc Sỹ sức khỏe, sống lâu trăm tuổi để có thể thấy những "Cò Đùm" của ông nơi quê nhà, rồi ra sẽ không còn cúi mặt. 



Hoàng Khởi Phong 



































Doãn Quốc Sỹ































Doãn Quốc Sỹ, người anh khả kính


Trước mặt tôi là bản tin cho biết ngày 27 tháng Tư năm 1988 vừa qua, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã đưa một số văn nghệ sĩ tên tuổi ra tòa án nhân dân xử tội và kết án tù những người này theo tội danh "liên lạc với nước ngoài, tuyên truyền phản động chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa". Theo bản tin này, nhà văn Doãn Quốc Sỹ bị kết án 9 năm tù, nhà văn Hoàng Hải Thủy bị án 8 năm tù, ca sĩ Khuất Duy Trác 4 năm tù. Hai nhân viên bưu điện làm trung gian chuyển tác phẩm của các văn nghệ sĩ kể trên ra nước ngoài bị tội tòng phạm, mỗi người lãnh án 2 năm tù.

Đối với một độc già bình thường ở một nước dân chủ, bản tin không làm cho ai ngạc nhiên. Những nhà thương điên, những trại lao động khổ sai, những vụ trục xuất, những ruồng xét khủng bố , những trường hợp như Solzenitsyn, Pastemak, Kundera... được báo chí sách vở trên thế giới nói nhiều, đến nỗi người ta chỉ ngạc nhiên nếu một người cầm bút dưới chế độ cộng sản tự xuất bản được một tập thơ ca tụng Tự Do, hoặc một tiểu thuyết gia phổ biến được một cuốn truyện ca tụng Con Người. Tù đày, khủng bố đã trở thành thuộc tính của chính sách văn nghệ dưới chế độ cộng sản, đến nỗi trở thành hiển nhiên, không còn ai ngạc nhiên nữa. 

Tuy nhiên, bản tin trên làm cho tôi băn khoăn thật lâu, nhất là bản án dành cho một nhà văn đàn anh tôi hân hạnh quen biết và kính phục là Doãn Quốc Sỹ.

Trong các nhà văn lớp trước, tôi cho rằng Doãn Quốc Sỹ và Võ Hồng là hai cây bút có văn phong lãng mạn và một tâm hồn đôn hậu rất Việt Nam, cái chất Việt Nam nhân ái hiếu hòa, cần cù lương thiện, hớn hở vui mừng khi gặp người đồng điệu, mà cũng dứt khoát phẫn nộ nói ra thành lời khi gặp chuyện bất bằng, cái chất Việt Nam chưa bị những lý thuyết ngoại nhập làm cho thui chột để trở thành tàn nhẫn, độc địa, lai căng, lưu manh, lố bịch. Thế giới tiểu thuyết của Võ Hồng không có người đáng ghét, chỉ có đa số những người hiền, một thiểu số rất nhỏ còn lại là những kẻ đáng thương.

Thế giới tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ cũng vậy. Tuy là một trong những người sáng lập ra nhóm Sáng Tạo, ông như một người anh cả ngồi riêng một góc nhìn bạn bè cùng tuổi hoặc nhỏ tuổi hơn lớn tiếng đòi tắt mặt trời, tát cạn biển, giương cao cờ; khói thuốc lá phun mù phòng khách, chai bia rỗng vất khắp nền nhà, để rồi khi tàn cuộc, bạn bè lăn quay ra ngủ, người anh cả lặng lẽ thu dọn những gạt tàn thuốc, những rác rưới lẫn lộn với quần áo bẩn, và đắp lên người họ những tấm chăn ấm.

Nhiều người trong giới cầm bút khen và cũng chê tính đôn hậu trong tiểu thuyết Doãn Quốc Sỹ. Họ lý luận rằng ông đôn hậu quá nên nhân vật tiểu thuyết của ông đẹp nhưng có vẻ không thực, ông không lột hết được bản chất phức tạp của cuộc đời, bản chất hàm hồ của con người, bản chất tàn nhẫn phi lý của lịch sử. Khi xây dựng nhân vật, Doãn Quốc Sỹ thường không lưu tâm moi móc những ngóc ngách xấu xa của họ. Trái lại, ông lưu tâm tô điểm những nét đẹp của họ. Những Kha, những Miên, những Hãn, những Khiết của Khu Rừng Lau, những Thiệu những Yến của Dòng Sông Định Mệnh, tuy mang cái thao thức rất-lịch-sử, nhưng lối sống của họ, lối nói năng của họ phảng phất lối nói lối sống của những Dũng, những Loan, những Độ, những Hào của Đôi Bạn, Đoạn Tuyệt. Cùng một nhóm Sáng Tạo, những tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ khác một trời một vực với Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Tùy Bút của Mai Thảo.

Không phải Doãn Quốc Sỹ, như một nhà nho cuối mùa, đã mất hết khả năng thích ứng và tiếp thu cái mới. Ông là người khao khát học hỏi, nhạy cảm trước sự đổi thay, và có điều kiện cũng như kiến thức tiếp xúc với cái mới hơn nhiều nhà văn đồng thời. Doãn Quốc Sỹ từng du học ở Hoa Kỳ một thời gian. Hồi hương, ông viết cuốn Sầu Mây, nhân vật chính đã có mẫu mắt xanh, mái tóc vàng, mũi cao, da trắng. Nhưng nhân vật ấy mê ca dao Việt Nam, như Miên như Kha, lãng mạn đôn hậu như Yến. Qua đôi mắt quan sát của Doãn Quốc Sỹ, qua màng lọc tâm hồn ông, Con Người được viết hoa. Ông dành chỗ rộng trong tiểu thuyết cho những người trung thực đôn hậu. Ông yêu âm nhạc, ghét những tiếng ồn, và những nhân vật ông thân yêu nếu không mê ca dao thì cũng mê thích một loại nhạc khí cổ điển nào đó, hoặc vỹ cầm, hoặc dương cầm.

Một người có tâm hồn như vậy không thể thích ứng với những nghề đòi hỏi óc mưu mẹo, đòi hỏi khả năng đối phó với nhiều hạng người phức tạp. Cũng không thể thích ứng với những vụ trình diễn chiêng trống xập xình, cờ quạt mũ mãng sặc sỡ. Nếu cho rằng cái tính trời sinh là biểu hiện của định mệnh thuyết, thì định mệnh đã dành sẵn cho Doãn Quốc Sỹ một nghề: nghề giáo. Những ước mơ cao đẹp ông ấp ủ, tình yêu người yêu đất, niềm tin ở Tự do, Công bằng, Lẽ phải, chỉ có cơ hội thực hiện và quảng bá qua hai công việc mà Doãn Quốc Sỹ cho là thích hợp nhất đối với ông: đi dạy và viết văn.

Suốt hai mươi năm trên nửa phần đất tự do của quê hương, ông đã say mê hai công việc đó. Học trò ông, độc giả của ông đã yêu mến kính phục ông qua hình ảnh một ông thầy yêu nghề, một nhà văn mực thước và nhân ái. Không có ai nhớ về Doãn Quốc Sỹ như một kẻ giương cờ gióng trống hô hào một cuộc cách mạng văn chương, hoặc một ông vua xuống đường hô hào lật đổ cái này để bày cái khác. Kể cả khi viết về những kinh nghiệm của ông trong thời kháng chiến, kinh nghiệm về người Cộng sản, Doãn Quốc Sỹ vẫn viết với giọng điềm tĩnh đôn hậu cố hữu. Ông không "nổ" như Nguyễn Mạnh Côn, không "độc" như Võ Phiến. Người Cộng sản ông từng biết thời thanh niên của ông, qua lời ông viết, là những nạn nhân của một chủ thuyết ngoại lai, không phải là tác nhân. Và đó là chủ đề những truyện ngắn chống Cộng Doãn Quốc Sỹ viết thời kỳ sau hiệp định Genève.

Nhớ về ông, phần lớn bạn bè, học trò hay độc giả nhớ tới một mẫu người Việt Nam thường thấy nên thanh tiêu biểu: hình dáng mảnh mai nhưng rắn chắc, khuôn mặt xương xương, nước da nâu, đi đứng chậm rải, và trên môi luôn có một nụ cười hiền lành. Một người ung dung và tự tín, bằng lòng với những điều mình làm và cuộc sống mình có. Theo quan niệm ngày trước, ông không phải là típ người "khẳng khái cần vương" mà thuộc loại "thung dung tựu nghĩa".

Doãn Quốc Sỹ chọn cái khó "thung dung tựu nghĩa" vì bản tính chứ không phải vì cho rằng "khẳng khái cần vương" là việc dễ không đáng làm. Sự lựa chọn đó ít va chạm quyền lợi kẻ khác, lại quảng bá tuyên xưng những điều tốt đẹp nên làm lợi cho xã hội. Lẽ công bằng bắt buộc người đời phải mến yêu ông. Lối sống ông chọn không rực rỡ, không thời thượng, thì người ta cũng sẵn sàng dành cho ông một chỗ đứng yên ổn tịch mịch, để ông tiếp tục ươm những mầm non yêu đời, yêu người, yêu tổ quốc. Doãn Quốc Sỹ được hưởng thành quả những điều mình làm trong hai mươi năm bằng một vị trí xứng đáng trên văn đàn, một địa vị tôn trọng trong giáo giới, và một nếp sống gia đình yên ấm, trong con hẻm đường Thành Thái.

Nhưng rồi tất cả đều bị đảo lộn sau 30 tháng Tư năm 1975. Trong những ngày hoang mang lơ láo đó, giới viết lách Miền Nam vẫn thường gặp nhau trên phố Nguyễn Huệ, Lê Lợi, Tự Do để chứng kiến cảnh những tác phẩm tim óc của mình bị đổ từng đống hoặc bày la liệt ở vỉa hè bán solde cho những ai còn muốn giữ chút dư hương của một quá khứ đã mất. Lái sách, ngoài những tay buôn bán cũ chuyên nghiệp còn có những nhà văn, nhà thơ thất cơ lỡ vận gia nhập vào lãng. Người mua gồm đủ thành phần: những người mê sách, những người chưa hề nếm qua mùi Cộng sản tưởng 30-4-75 cũng giống như những cuộc đảo chánh chỉnh lý trước đây, những chú bộ đội tò mò, những đồng bào Miền Bắc chịu đựng mười mấy năm một gánh nặng mà không dám kêu than muốn tìm một tâm hồn đồng điệu...Tác phẩm và tác giả cùng nhìn nhau bùi ngùi giữa cảnh bát nháo hỗn loạn của cuộc đời.

Trong lúc những người khác hối tiếc không nhanh chân hay hớn hở cho hợp thời, tôi thấy Doãn Quốc Sỹ vẫn ung dung, điềm tĩnh. Ông biết rõ những gì đang chờ đợi ông, nhưng ông quyết định ở lại. Ông nói ông không thể rời bỏ quê hương được. Ông không lạc quan tếu, cũng không tuyệt vọng. Tôi nhớ ông nói nếu có gặp hoạn nạn vì những gì đã viết thì cũng đành chịu, vì không khác được. Ông phải viết những điều cần viết, và sẽ rán viết tiếp những điều cần viết. Không nói ra, nhưng chúng tôi biết ông ngầm cho rằng muốn có chất liệu viết được những điều sẽ viết, ông phải ở lại. Không hối tiếc, không hớn hở.

Ông bị bắt lần đầu giữa năm 1976, bị đày lên những trại tập trung tệ hại nhất ở cao nguyên, rồi do can thiệp của dư luận quốc tế, ông được phóng thích năm 1981. Ông ra khỏi nhà tù được vài tháng, ngẫu nhiên tôi được gặp ông trong bữa "tiệc" tối do một hoạ sĩ đứng ra khoản đãi. Anh bạn hoạ sĩ (Vũ Hối) có một bức tranh lưu lạc ở nước ngoài từ trước 1975 và có tin bạn bè ở hải ngoại gửi về cho biết tác phẩm của anh được một hàn lâm viện mỹ thuật chọn bảo tồn. Bức tranh đó, sau này tôi thấy nhiều cơ sở sản xuất tranh sơn mài ở hải ngoại lấy mẫu sản xuất hàng loạt. Anh họa sĩ vô cùng hân hoan, nên xoay một món tiền nhỏ, nhờ một người quen nấu cho nồi cà ri gà, mua bánh mì và một ít nem chả, thế là đủ làm tiệc vui khoe với thân bằng cố hữu. Tôi nhớ hôm ấy món cà ri gà còn được giặm thêm bằng tiếng đàn nguyệt của một ông hoàng Huế đa tài, và giọng ngâm của Hồ Bắc. Thơ cổ kim theo tiếng đàn khoan nhặt chỉ làm nặng lòng những kẻ bẽ bàng lơ láo là đám văn nghệ sĩ chiến bại, gồm đủ mọi ngành, hoạ có, văn có, thơ có.

Doãn Quốc Sỹ xin phép về sớm khi tiệc chưa tàn, sau khi một người trong tiệc cao hứng hứa nếu ai có tác phẩm cần gửi ra nước ngoài thì anh sẽ tìm cách giúp đỡ.

Tôi tiễn ông ra cửa. Nhà người bạn cho mượn làm nơi hội họp ở khu vắng vẻ, bên cạnh dòng sông và cách xa đường cái bằng một khu vườn. Đêm tối đen. Tôi hỏi thăm ông về những năm tháng ở trại Gia Trung, nhân tiện hỏi hư thực về tin đồn bên ngoài bảo rằng từ khi bị bắt, Doãn Quốc Sỹ cương quyết quay mặt vào tường, tọa thiền diện bích, từ chối không trả lời những câu hỏi của cán bộ chấp pháp. Ông cười, rồi nói :

- Anh em ở ngoài vì thương nên đồn đãi như vậy. Mình ở trong tay họ, làm vậy có ích gì! Cái cốt yếu là giữ được tư cách dù ở trong tay họ.

Ông nói câu ấy với giọng bình thường, không cao giọng, không bậm môi rướn cổ. Ánh đèn từ trong nhà lọt qua cửa kính, khuôn mặt của ông trông xương xương hơn xưa, nhưng ánh mắt vẫn sáng vui. Nhân tiện, tôi chào từ biệt ông, thấp giọng thú thực tuần sau tôi sẽ vượt biên. Ông im lặng một lúc, rồi nói :

- Anh em lần lượt đi hết, cũng buồn. Nhưng nếu không thể ở lại được nữa, thì cũng đành vậy. Qua bên đó có khi lại viết được những điều cần viết.

Nghe ông nói, lòng tôi nhẹ lại. Trước đó, đôi lúc không nhịn được, tôi thố lộ chuyện toan tính ra đi với vài bạn thân, họ đều có giọng trách. Tôi phải nại cớ này cớ nọ: nào sống lêu bêu vô tích sự chỉ làm gánh nặng cho vợ con, nào không thể sống mãi trong trạng thái hồi hộp, nào mình không phải là loại activiste, militant. Câu trả lời của Doãn Quốc Sỹ đầy thông cảm và nhân ái, tôi xem như một món quà ý nghĩa một người đàn anh gửi cho người em vào lúc giã biệt.

Chuyến đi ấy thất bại, và tôi chỉ đi thoát vào chuyến thứ năm, cuối năm 1981.

Cuối năm 1982, tôi được đi định cư tại thành phố Houston Hoa Kỳ sau 11 tháng chờ đợi ở đảo. Đặt chân lên miền đất tự do, tôi ngấu nghiến đọc hết sách báo của bảy năm lưu vong. Trong một vài truyện ngắn, trong một cuốn tuyển tập, tôi nhận ra được cái văn phong đôn hậu thung dung và lãng mạn một thuở. Tôi đoán già đoán non tác giả, và được một vài bạn hữu lấp lửng xác nhận.

Doãn Quốc Sỹ đã viết những điều cần viết, và sẵn sàng ung dung chấp nhận tất cả mọi hậu quả, trong khi không bao giờ, phải, ông không bao giờ tự nhận mình là một chiến sĩ, một người đấu tranh. Trước sau ông vẫn là một nhà giáo kiêm nhà văn, với tất cả ý nghĩa cao đẹp của hai nghiệp vụ đó.





Nguồn: Văn Học số 31, tháng Tám 1988


















(...)


-------------------------------
trích một phần từ  blog phan nguyên
============================






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét