by cong huyen ton nu nha trang -- bản việt ngữ: đoàn thanh liêm
source: diễn đàn thế kỷ
linh bảo [i.e. võ thị diệu viên 1926- ] (ảnh: internet)
sinh ngày 14.4. 1926,trong một gia đình quan lại triều đình Huế. Cha: Võ Chuẩn,
nguyên tổng đốc Quảng nam/ Trung bộ. Me gốc hoàng tộc: Tôn nữ thị Lịch. Linh Bảo còn 2 tên
khác: Lại Cẩm Hoa ( tên trên chiếc vé xuống tàu, vượt biên sang Hong Kong) -- Mo Chung Shu
(Vũ trung Thư -- tên ghi danh tại trường học ở Nam kinh/ Quảng châu/ Trung hoa).
Mới xong năm thứ 2 (1947-1949) tại đại học Sun Yat Sen University; CS chiếm Hoa lục vào 1950;
bà phải lánh nạn sang Hong Kong. Việc làm đầu tiên kiếm sống, làm phụ tá nha sĩ (dental tech.)
và lồng âm tiếng việt cho các phim Tàu. Năm 1951, lập gia đình với một người Hoa
(quốc tịch: Anh quốc), bà trở thành công dân nước Anh. Bà có nhiếu bút danh: Hương Giang [khởi
đầu, có sự khuyến khích của thi sĩ Phan khắc Khoan], . Bút danh chính là Linh Bảo. tên người
chồng Ling Po Chan.(Trần Linh Bảo). Năm 1954: nhân viên của Lãnh sự quán VNCH. Từ đây,
có sự quen biết với vợ chồng Trương bảo Sơn + Nguyển thị Vinh. ; bản thảo 'Gió bấc' được trao
lại cho văn sĩ Nhất Linh đọc. Thời kỳ này, bà dùng bút danh Lại Cẩm Hoa . Sau đó, Nhất Linh cho
in trong Tủ sách Phượng Giang, do Nam Cường bỏ vốn in ấn, phát hành tại Sài gòn.
- năm 1957 ; bà về Saigon,1959 sang Pháp, qua Anh quốc; rối sau cùng ;định cư ở Hoa Kỳ. Bà
được tuyển dụng để dạy việt ngữ tại Defense Language Institute ( trường Sinh ngữ quân đội Mỹ
-- t ừ 1992 đến 1976 -- trương này bị giải tán,sau khi chiến tranh Việt nam kết thúc).
-- Tàu ngựa cũ được Giải thưởng văn chương tổng thống VNCH năm 1961.
Các tác phẩm khác:
-- Gió bấc (Saigon, 1953) -- Những đêm mưa (1961) -- Những cánh diều (1971)
-- Mây tần ( U.S.A. 1981) -- Chiếc áo nhưng lam ( sách Hồng (thiếu nhi), Saigon 1953)
-- Con chồn tinh quái (truyện thiếu nhi, Saigon 1967)
( trích từ ' Đên với Linh Bảo từ Gió bấc đến Mây tần' / Ngô thế Vinh).
Còn Wikipedia (tiếng việt) viết vê gia thế Võ thị Diệu Viên[ Linh Bảo] : "...Theo hồi tưởng [ trưởng nữ]
Võ thị Diệu Viên[ Linh Bảo], lúc sinh tiền; ông Võ Chuẩn [ bố đẻ] rất chăm làm thơ, văn, phù, tế, đối ...
Thông lệ, sau mỗi bữa tối;, ông thường ngâm thơ cho các con nghe. Hễ ai thuộc trước, đọc lại
đúng, dù chưa kịp hiểu nghĩa; thì cũng được tưởng một cái kẹo dừa. Sau này, con cháu gom các di
cảo của ông,[ tập hợp lại trong] Thạch xuyên thi tập để lưu trữ. Ngoài ra, thời làm quan ở Kontum
(Trung bộ) Võ Chuẩn soạn Văn tế âm hồn ở Kontum, để tuyên đọc vào ngày 27 tháng 10 năm 1933;
trong lễ chẩn tế tại Linh sơn tự:
" Cũng có kẻ áo xiêm ràng buộc, mong đền bồi nợ nước ơn vua,
Cũng có người quần vận áo mang, lo toan tính cảa chồng công vợ.
Cũng có kẻ theo đường thương mại, phải đeo mang buôn Mọi bán lào,
Cũng có người kiếm kế sanh nhai, lên (?) [nên] lăn lóc làm thầy làm thơ.
Cũng có kẻ thiên phương bách kế, nghịch đạo nhà trốn tránh ẩn thân,
Cũng có người một lỗi hai lầm,, trái luật nước đạo đày cấm cố. ..."
(trích 'Văn tế âm hồn ở Kontum'
Gia thế : Võ Chuẩn kết hôn với Công tằng tôn nữ Khẩn Đàn (thuộc dòng dõi Túy Lý vương) sinh
2 nam + 2 nữ. Ngoài ra, ông còn có một người vợ nữa; sinh thêm 2 nam + 3 nữ. Bên cạnh đó, còn
nhiều phụ nữ khác -- vì mến tài ông mà theo. Một người [nữ] đã sinh cho ông thêm 1 con trai. Trưởng
nam: Võ Quyền -- Thứ nam: Võ Hoành . Trưởng nữ: Võ thị [Diệu Viên] ( Linh Bảo)-- Thứ nữ: Võ thị Cam
(kết hôn với Hồ văn Tập) -- Út nữ: Võ thị Hoài Trinh (1930- bút danh Minh-Đức-Hoài-Trinh)
Ngoài ra, ông [Võ Chuẩn] còn có những người con, sau đây:
-- Võ Sum [ cựu trung tá hải quân Quân lực VNCH], bút danh Thạch Hà, tác giả một tập truyện ngắn xxx,
thân phụ nhạc sĩ Võ tá Hân ] -- Võ Tuyết Phiến -- Võ thị Băng Thanh -- Võ tá Bá -- Võ Ngô.
( Wkipedia, tiếng việt )
đại học Tôn Trung Sơn [Sun Yat Sen University] tại Nam Kinh/ Quảng châu/ Trung hoa
( Linh Bảo cung cấp ảnh cho nhà văn Ngô thế Vinh)
chân dung ảnh Linh Bảo, qua các thời kỳ.
(ảnh do Lê ngộ Châu, chủ nhiệm tạp chí Bách khoa (Saigon) cung cấp cho TP).
related article
linh bao: 'women writer of south vietnam'
by cong huyen ton nu nha trang
linh bảo: các nhà văn nữ việt nam (1954- 1975)
bản việt ngữ: đoàn thanh liêm
... Một tên tuổi [khác] hay được nhắc nhở chung với Nguyễn thị Vinh; đó là Linh Bảo. Hai người xuất hiện trên diễn đàn văn học, như cùng một lúc; cả [ đề]u được Nhất Linh giới thiệu [tác phẩm đầu tay, cho mắt độc giả].
Tên thật là Võ thị Diệu Viên, sinh năm 1926 tại Thừa thiên- Huế. Linh Bảo học ở lục địa Trung hoa [vào] năm 1947;[rồi] chuyển qua Hong Kong (1950).; sau khi Cộng sản chiếm được lục địa.
Tại Hong Kong, bà gặp Nguyễn thị Vinh; và, đưa ra cuốn nhật ký viết; khi còn là sinh viên; trong các năm xáo trộn ở Trung hoa, cho bà Vinh coi.
[Rồi sau đó] Nguyễn thị Vinh bẻn đem cho Nhất Linh đọc. Nhất Linh góp ý [với] Linh Bảo:[nên] viết lại cuốn hồi ký này; bằng cách sử dụng ngôi thứ 3, thay vì ngôi thứ 1 trong khi kể chuyện -- lý do, vì độc giả không quen; mà cũng ít thiện cảm với loại 'tiểu thuyết do tác giả xưng danh chính bản thân mình'.
Linh Bảo đã sửa lại theo gợi ý của Nhất Linh; và, cuốn tiểu thuyết Gió bấc được nhà xuất bản Phượng giang [do Nhất Linh chủ trương, nhà phát hành Nam Cường in ấn+ tổng phát hành] vào cuối năm 1953.
Linh Bảo trở về Việtnam năm 1957, ở lại đến năm 1959; sau đó sang [Pháp, Anh quốc]; bà vẫn tiếp tục cộng tác thường xuyên với tạp chí Văn hoá ngày nay (Nhất Linh (chủ trương), [cùng] các tờ báo khác: Mới, Người Việt Tự Do, Tân Phong, Vui sống, Bách khoa.
Tác phẩm đã xuất bản,gồm: Gió bấc ( tiểu thuyết, 1953), Tàu ngựa cũ (tập truyện ngắn, 1961), Những đêm mưa (tiểu thuyết, 1961).
Hai tác phẩm nổi tiếng nhất: Tàu ngựa cũ + Những đêm mưa .
Tàu ngựa cũ gồm 9 truyện ngắn, đã từng đăng ở Văn hoá ngày nay + Tân Phong; từ năm 1958 đến đầu năm 1960. Tập truyện này đem lại cho Linh Bảo giải thưởng Văn chương toàn quốc , năm 1961. Hai truyện ngắn Áo mới + Người quân tử đã được dịch ra Anh ngữ, [ từng]đem dự thi tại cuộc thi truyện ngắn do PEN CLUB quốc tế tại Luân đôn bảo trợ. (1962). Tác phẩm của Linh Bảo, một trong số 26 tác phẩm được lựa vào vòng tuyển lựa chung kết.
Truyện Áo mới kể sự tích nhiều tà áo dài; vì lý do này hay lý do bất ngờ khác; cô gái đã không có cơ hội được khoác những áo đó + thêm nỗi chán chường của cô gái; khi bà mẹ đã không còn sống, để [hưởng] sự vui thích với chiếc áo mới-- nhờ đi làm, cô đã có thể mua sắm thêm.
Truyện Người quân tử mô tả hòn cảnh đáng thương của một cô gái trẻ, ngây thơ bị dẫn dụ vào việc đóng nhiều vai trò; của người thư ký không được trả lương: người tình. người vợ, người tớ gái -- do sự sắp đặt của một người đàn ông đóng vai người che chở bao bọc + cung cấp nơi ăn, chốn ở cho cô bé.
Truyện Tàu ngựa cũ mô tả cuộc gặp gỡ tình cờ cảm động; trên một con tàu của 2 người yêu cũ đã lâu không gặp nhau; [tới] sự xuất hiện của người vợ -- khiến làm cho người đàn ông [sực tỉnh] trở về thực tế; mà ông ta coi mình như con ngựa quay trở về,[đúng vị trí quen thuộc, là cái] chuồng cũ của mình.
Truyện Biên giới trình bày những rào cản giả tạo, do một người đàn ông Việt nam tưởng tượng ra [sự]ngăn cách giữa ông ta,với cô gái Ấn độ; ông ta gặp trên con tàu; [rồi] để ý đến cô gái. .
Truyện Quà Tết mô tả quà tết, từ một người chị có lòng; nhưng lại không có tiền. Món quà gồm 4 hộp gỗ đựng trái cây; đã bị người ta liệng bỏ đi; [rồi] người chị phải vất vả, nặng nọc, khuân về nhà; cốt ý dùng để làm củi đốt, sưởi ấm cho cô em gái, đang bị đau bệnh.
Truyện Một chuyến lên bờ tập trung vào chuyến đi ngắn, lên bờ; của một chàng trai Việtnam với cô gái Nhật bản -- vì chàng trai thiếu tháo vát, khiến cô gái mất hết sự quyến luyến ban đầu đối với chàng.
Truyện Một truyện ngắn hay nhất; tác giả cho người đọc coi lối suy nghĩ+ tưởng tượng của một phụ nữ dự tính
viết về mối tình lãng mạn (tay 3); gồm những tình cảm cao thượng của các nhân vật liên hệ -- nhưng bà ta thấy cái tình tiết diễn ra, vượt khỏi tầm tay; khi các nhân vật tưởng tượng lại biến thành 'cái chuyện tình tay 3' cụ thế' [kia], ngay tại hàng xóm, bên cạnh nhà .
Truyện Đông Sương ký mô tả lối sống của phụ nữ độc thân qua lứa; mỗi ngày phải đối diện bới nỗi cô đơn, vào ngày cuối năm.
Và sau cùng, truyện Ngày giỗ mẹ; ta thấy một người đàn ông [quốc tiịch] Đức sinh sống ở Paris, thay đổi thái độ trái ngược với mẹ; khi anh ta chứng kiến nỗi đau buồn+ tình yêu thương của 3 anh chi em người Việt đối với bả cũa họ. (nhân ngày giỗ mẹ).
[Tiểu thuyết] Những đêm mưa, có thể coi như hoàn tất cái vòng tròn; mà, cuốn Gió bấc đã mở ra [từ ]8 năm trước. Gió bấc là chuyện về một người phụ nữ trẻ lớn lên ở Huế [có] mơ ước được đi du học ở hải ngoại; rồi nàng được toại nguyện, khi được qua Hong Kong và [Thượng hải] / Nam kinh. Nàng cố gắng làm lụng cật lực tại Hoa lục để có thể tự lập; cho đến khi gặp được một nam nhi muốn chia sẻ cuộc sống với mình.
Tiểu thuyết Những đêm mưa tiếp nối câu chuyện bỏ dở của Gió bấc; vói 2 bạn trẻ cưới nhau. Cuộc sống lứa đôi chẳng bao lâu trở thành quá ít thơ mộng; chẳng an lành như người con gái từng hy vọng; nhiều mâu thuẫn xảy ra đem tới sự bế tắc. Người đàn bà phải thu xếp hành trang; và, đem đứa con gái trở về Huế, để thăm cha mẹ; trong một thời gian không hạn định. Đã vỡ mộng với cuộc hôn nhân của mình; khi về lại quê nhà, chị ta lại còn phải chứng kiến nỗi đau đớn thầm lặng của mẹ, bởi lý do người cha quá mê say; chỉ một mực chăm lo người vợ lẽ. Sau khi người cha chết; bà mẹ trao cả căn nhà cho người vợ lẽ; [rồi] tìm chốn nương tựa tại một ngôi chùa.
Rốt cuộc; người phụ nữ đã đi đến quyết định: 'chỉ còn biết trông cậy vào chính bản thân mình, chứ không phải nương tựa vào một ai khác' -- nàng [bèn] kiếm một việc làm; [cũng] không còn dự tính trở lại với người chồng ở Hongkong nữa
.
Hâu hết các tác phẩm của Linh Bảo đều được viết ra từ hải ngoại. .Cốt chuyện thường xảy ra ở bên ngoài Việt nam; mặc dầu hầu hết các nhân vật trong truyện đều là người Việt. Họ có nguồn gốc khác nhau; và, tình cảm, xúc động trong tâm tự họ không phải lúc nào cũng cao thượng, hạnh phúc. Thực ra, ta gặp đủ loại nhân vật; Linh Bảo cũng chẳng ngần ngại mô tả cái mặt đen tối của họ với một sự thẳng thắn đến mức tàn bạo.
Khác với Nguyễn thị Vinh+ các nhà văn nữ khác lớp trước; hoặc cùng thời với mình, vốn thường chú tâm, để giữ một khoảng cách giữa nhà văn với các nhân vật của mình -- Linh Bảo có thể coi như nhà văn nũ chủ quan đầu tiên.
Điều này có thể được phán đoán, qua sự thể, là cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà bắt nguồn từ cuốn nhật ký ; đó là cuốn tự truyện được che giấu đi, bằng cách sử dụng ngôi thứ 3.
Cũng vậy, cuốn tiểu thuyết thứ nhì, bao gồm kinh nghiệm của bà về nạn lụt ở Huế; vào thời gian bà từ hải ngoại trở về thăm quê nhà.
Nhân vật nữ trong các tác phẩm của Linh Bảo thường biểu lộ một khái cạnh trong nhân vật của tác giả. Tuy nhiên; đó chỉ là một mặt của vấn đề, cái phần liên quan tới chủ đề. Ngay trong nghệ thuật viết, tính chủ quan của bà cũng được biểu lộ một cách độc đáo. Thường xuyên trong các tác phẩm của mình ; Linh Bảo xác định cá tính của mình, qua sự sự phê phán, với giọng văn khôi hài, chua cay; về những tình huống liên hệ đến phụ nữ. cái thái độ hoài nghi, yếm thế đó khác hẳn với giọng điệu các nhà văn nữa cùng thời với bà.
Troing ý hướng đó; nếu tác phẩm tiểu thuyết của Nguyễn thị Vinh củng cố niềm tin rằng, 'sự bao dung + hy sinh tận tụy hết mình của nữ giới,dễ giúp phục hồi lại cuộc sống bình thường' -- thì, tác phẩm Linh Bảo, 'đưa ra sự cần thiết phải đánh giá lại tính cách vững bền lâu đời của cái lối chịu đựng như vậy, có tác dụng kéo dài sự thất bại nữ giới; để mong đạt được hạnh phúc chân thật.'
Đọc xong chuyên của bà, độc giả có cảm giác bất an; gơi [nỗi] buồn rầu ngồ- ngộ, với cách tác giả đặt cạnh sát nhau những yêu tố đối chọi nhau. Cái nội dung nghịch lý ăn khớp với lối viết khôn ngoan, tinh tế phát biểu.
Những câu văn trôi chảy như lối nói thường ngày; khác hẳn với bút pháp trau chuốt của những nhà văn theo trường phái Tự lực văn đoàn-- và, rõ ràng biểu lọ ưu điểm của sự chính xác về văn phạm [ngữ văn]. []
cong huyen ton nu nha trang (*)
đoàn thanh liêm chuyển ngữ)
(source: diễn đàn 'Thế kỷ')
công huyền tôn nữ nha trang có bút danh Thanh Nhung, khi còn ở Việtnam).
(ảnh trích ở thi tập Hoa mười phương ( nhiều tác giả -- Saigon 1959 )
trái sang: Đoàn thanh Liêm ( hàng 5, đội mũ kết)
-- ảnh chụp ' Ngày an táng Thế Nguyên 17.8. 1989 --
chú thích của nhà báo Nguyễn quốc Thái
Ngày an táng Thế Nguyên 17.8.1989
từ trái sang phải --nhà văn Hồ Phong (hiện ở Saigon) -- Hiếu 'píp --
linh mục-văn sĩ Nguyễn ngọc Lan [930- Saigon 2007)-- tác giả Nguyễn
nhật Duật (chết) -- Đoàn thanh Liêm (hiện ở Hoa Kỳ) -- Thế Phong 1932- hiện ở Saigon ]
chủ báo Tin Văn Nguyễn ngọc Lương (chết)
-- Nguyễn đăng Lan (Tư Bình) -- nhà báo- thi sĩ Nguyễn quốc Thái [1943 hiện ở Sài gòn)
-- chủ nxb Nam Sơn Trịnh viết Đức (hiện ở Canada)-- họa sĩ trình bày báo: Hoàng ngọc Biên (hiện ở Mỹ)--
tác giả Đinh phụng Tiến (hiện ở Mỹ) -- linh mục, chủ báo Chân Tín (chết) -- chủ nhà
xuất bản' Tổ hợp Gió' Nguyễn ngọc Tiệp (chết) --
-cháu Trần Vũ (con trai Thế Nguyên, cầm ảnh; hiện sống ở Sài gòn )
một truyện ngắn đặc sắc linh bảo
áo mới
linh bảo
... Không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày 'Hoàng đế hồi loan'; bà sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không; mà, nếu có, thì chúng tôi, những ranh con; cũng không được quyền can thiệp.
Tôi còn nhớ; 4 chị em tôi có 4 chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa đeo cổ cho đẹp, vừ để dành làm của, làm vốn; và, nếu cần tiền có thể cầm bán tạm thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy có một con đường đi bất di bất dịch.
Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi 'lữ hành' như thế; ít nhất mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền chuộc về; nằm trong tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh 'Ngài ban vay'. Và như thế, bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất; còn số tiền cầm đồ nhận được; thì đi con đường độc đạo một chiều -- và, là một con đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi 'Ngài'; để rồi bị thủ tiêu mất tích trong chiếu bạc; không còn một chút dấu vết gì để lại với đời.
Đã thế, thỉnh thoảng 'Ngài' lại 'ngự' đến 'tệ xá'; quả thực là quá tệ. Nó chỉ là một gian nhà bé nhỏ, nằm lọt vào một vùng đất trống; xưa kia là một bãi tha ma lớn, cách xa thành phố đúng 3 cậy số.
Cha mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây biệt thự; vì, theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi cần phải thở không khí có gió thông trong lành, rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong 'tệ xá' có rất nhiều đồ cổ quý giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi; nhờ cầm hay bán hộ. 'Giấy rách phải giữ lấy lề', nên dù ngày mai không còn gạo để nấu cháo loãng; họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán đồ vật. Họ vẫn còn làm điệu bộ rất kênh kiệu, quí phái, cao sang; cả đến khi cần 2 xu để ăn quà sáng.
- Đưa đây cho mệ 2 xu, Mệ 'chém' một củ khoai chơi nà!
Tuy cảnh tùng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh 'khẩu khí' vẫn không hề thuyên giảm -- và, các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn, thú vị tí nào. 'Mệ' là tiếng xưng hô một bà cụ rất già; hay, những người trong hoàng tộc, không phân biệt già, trẻ, nam hay nữ.
Đường đến nhà tôi, 2 bên trồng toàn thông xanh; và, phải lên 2 con dốc rất cào. Thỉnh thoảng người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa, có một chiếc xe kéo sơn son thiếp vàng; một chú lính mặc áo đỏ, chân quấn xa-cạp vàng, đầu đội nón chóp; ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe, có 2 cô bé con; độ 14, 15 tuổi, mặc áo hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xoã ngang vai. Một cô cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhỏ bằng bạc; một cô tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe; giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại tụt xuống dần xuống đằng sau.
Ấy thế mà, bọn họ từ Cung Cấm trong thành nội ra tận Nam giao, ngót 4, 5 cây số; để đến 'tệ xá' đấy.
Sau khi đến nơi, 'Ngài' chễm chệ leo lên chiếc sập cẩn xà-cừ, đặt ngay chính giữa nhà; 2 thể nữ đứng hầu 2 bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. 'Ngài' lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong' tệ xá'; và, cố nhiên khi 'Ngài ngự lên chiếc xe nhà, sơn son thếp vàng; có 2 thể nữ chạy theo hầu ấy.
Trước khi bước chân lên xe, thế nào 'Ngài' cũng 'ban truyền':
- Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung Cây vàng lá ngọc kia nữa; rồi ta sẽ trả tiền cho. Còn cái sập cẩn này, chị cho ta mượn; mai, ta sai thị vệ ra chở.
Mẹ tôi chỉ biết 'Dạ' mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như người; khi đã được 'tiến cung'; thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng ái, số phận đồ vật còn đen tối hơn Cung phi, Mỹ nữ không được sủng ái. Các cung nhân khi về già, còn được thải hồi nguyên quán; trái lại ,những món đồ cổ, càng già càng qúi thêm; càng không mong gì được trả về với cố chủ.
Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm: " Thấy Vua, rõ thật là 'thua vấy!" Cuộc đời cứ thế trôi qua. Ba tôi ngày ngày đi làm. Mẹ tôi giới thiệu việc mua bán đồ cổ; và, ghép ảnh cho quí Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để nuôi chúng tôi một số rất nhỏ; còn phần lớn để nuôi' Ngài'.
Một hôm, chắc lương tâm' Ngài' thức dậy, hay là 'Ngài' sợ nợ mẹ tôi nhiều quá; nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra 'nợ thiên khối'; vốn + thêm lời lãi chồng chất lên nhau, thì nguy to; 'Ngài' bèn long trọng
'tuyên dương công trạng' một hồi; rồi, 'thân tặng' cho mẹ tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.
Đó là chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo về, vênh vang như một kẻ 'áo gấm về làng'. Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái 'Áo Vua ban' ấy; cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh ghép ngồi chung với đức Vua. Cả 2 cùng muốn chung với đức Vua. Cả 2 cùng muốn mang cái ảo ảnh hão huyền kia; để thỏa mãn lòng tự ái; lừa mình, lừa người, cho đỡ cơn ghiền!
Chiếc áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết; cái 'Áo Vua ban' ấy được trân trọng 'trình bày' trên thân hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ; rồi lại được trân trọng xếp vào rương, chờ dịp khác. Năm tháng qua, mới đầu chị tôi mặc chiếc áo còn rộng thùng thình; rồi chật dần, ngắn dần, cho đến khi mặc không vừa nữa; phải cho chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm; rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt giới tính ấy; mỗi năm lại có dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi rồi cũng có ngày đến lượt tôi được xỏ tay. Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quí giá ấy ra để mặc cho tôi; và, bảo:
" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con."
thì nó đã mục nát; chỉ động đến là rã tan ra từng mảnh!
Thời gian chờ đợi dù lâu bao nhiêu, rồi cũng phải đến; Đông Cung Hoàng thái Tử ở Pháp học thành tài trở về nước, để được tấn phong chính thức làm Vua. Và, cũng từ lúc ấy; 'Ngài Mẫu Hậu' ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ. Bây giờ,'Ngài' đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ; và, lại càng không muốn gặp người nào từng quen biết 'Ngài' những năm tháng hàn vi. Thật là chí lý, chí tình vậy ! Còn gì khó chịu hơn [đối với] một kẻ ở địa vị cao sang; mà, ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày xưa, đám người mình từng nhờ vả, năn nỉ, kêu than túng thiếu; những kẽ đã phải cầm bán, vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ nhục tinh thần; có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.
Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áo, đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi; nên, tôi khóc mùi, khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc, vì khi chiếc áo quí đến phần mình; thì, hóa ra một mớ giẻ vụn, tả tơi, rách nát; nhưng, thật ra tôi đã khóc cho cái ảo ảnh 'ân trả nghĩa đền' của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo; đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy; để bồi đắp cho thể chất, và tinh thần.
Những năm sau đó, gia đình tôi càng ngày càng khá hơn. Có lẽ vì; không phải cung phụng cho ai khác, ngoài gia đình -- nên lần lần trong mâm cơm gia đình, đã bắt đấu có nhiều món cá, thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giài cho chúng tôi biết về những thức ăn bổ dưỡng, cần thiết cho sức khỏe; một đề tài trước kia ông cố tránh.
Một hôm, không hiểu vì sao, mẹ tội bỗng nhiên 'phát bi từ tâm'; may cho chị Sáu, em Tám, em Chín, mỗi đứa một cái áo xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này có người tặng cho mẹ tôi, trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ 11. Chúng tôi mừng rỡ trông đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rời -- và, rộng thùng thình như áo tế ấy; thì bỗng dưng ông nội tôi chết. Tôi thấy cha mẹ tôi khóc, anh chị tôi khóc; tôi cũng khóc. Nhưng thực ra, tôi không nhớ được đã thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc cho 4 chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ; chưa từng được diện qua một lần, vì phải để tang; đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ; không vàng, không lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mỉa mai một cách văn chương, là 'màu dưa cải úa mùa thu'. Nếu bây giờ bảo tôi đặt tên lại; thì, tôi sẽ gọi là 'một bức tranh tập thể' may thành áo. Từng vệt, từng đám; ngang dọc chồng chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy; mà, chúng tôi vẫn phải khen, cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì đã có luật định rằng, một khi 'đấng sinh thành' đã quyết định; thì con cái phải vui vẻ 'Dạ, Vâng'; mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng, thấy con vui; cũng tưởng thiệt, mà vui theo một cách dễ dàng. Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo; và, áo cũng phải cố chịu đựng sự tàn nhẫn vùi dập của bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất; mặc suốt ngày đêm, vò nát nó; ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn nát chéo áo; để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua, như mùi dưa cải úa; hay, còn lẫn mùi gì khác nữa không.,
Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi sớm đả bị nhuộm thành một màu 'dưa cải úa lá mùa thu'; hay, cũng chỉ là một 'bức tranh lập thể' chồng chất những niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn ai đâu! Thế mà; chúng tôi nỡ dẳn vặt chúng nó, cho đến khi rách nát; và, cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.
Một bà bạn ở Saigon gửi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu sắc quá sặc sỡ, lộng lẫy; không hợp với người lớn tuổi, nên may cho 4 chúng tôi. Bốn chiếc 'áo tế' vừa dài, vừa rộng; may xong được cất kỹ, đợi 'ngày lành tháng tốt' mới đem ra diện. Thỉnh thoảng tôi lén mở rương, vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát rời rợi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp trừ sâu mọt; và, mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng cái 'ngày lành tháng tốt' ấy không bao giờ đến; vì, bỗng nhiên chú tôi mất . Kế ra thì nó chỉ là một cái tang nhỏ thôi; nhưng mẹ cũng bắt
chúng tôi để tang. Và một lần nữa, chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp; lại phải nhuộm thành một màu lem luốc không tên!
Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển đổi ngành công chức với chánh phủ Bảo hộ sang ngạch Nam triều; nôm na gọi là làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ; và, cũng không phải chụp ảnh cho ai nữa.
Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất; để dành tiền. Nhưng, những con heo ấy; hàng năm đều phải đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc 'lạc quyên'; để may áo quần cho bọn con trai, trước ngay tựu trường. Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh, khi cần thiết; chúng tôi lúc nào cũng vui lòng 'quyên'. Mẹ tôi bảo, đấy cũng là làm việc nghĩa; chẳng mất đi đâu mà thiệt; vi, mai đây các anh mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi. Khi những chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai 'quá cố' rồi; bọn con gái đã thành những cô gái dậy thì.
Chúng tôi đã biết thẹn; nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu; và rộng mênh mộng như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố nằm nì xin mẹ may cho một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo,
"Áo các anh mặc ngắn; thiếu gì! Còn tốt và bền lắm; may một lần cho cả bầy, nhiều tiền lắm, chứ tưởng ít sao? Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi; nhớ không? 'Áo Vua ban' này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này ..."
Tôi nhắc:
- Dưa cải úa mùa Thu chứ.
- Ừ thì úa mùa Thu chứ!
- Ừ , thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.
Tôi cải chính:
- Màu lem luốc chứ.
- Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!
Em Tám nói:
- Dạ mới may 4 năm về trước!
Mẹ tôi mắng:
- Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn; sau hết phước đi! Phải nhớ; hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!
Em Chín tiếp:
- Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi; còn chúng con là con một ông Tổng đốc đương thời!
Mẹ tôi giận dữ, quát lên:
- Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế?
- Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn, mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền; là mẹ đập con heo của chúng con.
Mẹ tôi vội vã:
- Thôi thôi; để tôi may, các cô không cần phải kể con cà, con kê ...
Mẹ sợ chúng rôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy tới thăm mẹ tội một lần; và, mỗi lần như thế, là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một việc hầu hạ phục dịch chị; cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi, thưởng tiền cho người nhà rất hào phóng. Đối với chúng tôi, chị cũng 'thết đãi linh đình'. Nghĩa là: gọi cả một gánh bánh bèo; hay, bún bò vài nhà, thết mỗi người một tô. Chỉ có cái 'di hận' là chị chuyên môn đập Heo của chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt ; tiền thưởng nhiều ít, tùy theo học giỏi, trả bài thuộc; những bài học ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ vào con heo bắng đất nung; mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng phát giác ra cấu chuyện ấy; thì, chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may may của chị. Mỗi tháng, chị đến đập heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị bán cửa tiệm đi lấy chồng; chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền nong hùn hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị ở nhằm hướng 'tán tài'; nên suốt báo nhiêu năm trời, chỉ chuyên môn thua lỗ. Và, cái tính không bao giờ thanh toán công nợ ấy; chị ấy vẫn giữ mãi suốt đời.
Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa ; lấy một xấp hàng 'xa xị' màu vàng nhạt , để tận đáy rương ra; may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh biết may cắt, dặn:
- May cho thật dài, rộng, mát mẻ; nghe không?
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông; mặc vào, như bơi đứng trong ao; nên nghe thế, phải dặn với:
- Ừ, may cho dài ...
Và đứng sau lưng mẹ; lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.
Đến lúc áo may xong; mặc thử, thật là dở cười, dở khóc. Nó dài phết gót; và chật như bó chả. Chật đến nỗi, tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ, không cử động được trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay; và, tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu; tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ, bạc màu của bọn con trai chuyển lại. Tiếp theo chiếc áo đấu tranh ; mà có [được], là một chiếc áo 'vải cạt'. Gặp thời buổi chiến tranh Pháp Đức, mọi vật đều khan hiếm; mọi vật dụng đều khan hiếm, nên phải được phối cấp; hàng vải cũng thế. Chúng tôi được may một cái áo bằng thứ 'vải cạt' phối cấp, hoa lá cành chằng chịt; màu xanh, đỏ, tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ, lòe loẹt; 'nhà quê' một cách không thể tả được -- mặc vào, rông như một tấm vải màn; hay, cái ghế nằm 'sofa' biết đi. Thế; nhưng tôi vẫn phớt tỉnh; coi như trên dời này, không có ai nhìn thấy mình cả.
Nhưng cũng từ đấy về sau; mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa -- vì chị Hồng thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số ấy, y phục loạn xà ngầu ấy; có cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ; tôi mặc vừa áo màu xanh. Hai chị em mỗi khi đi phố, đi chợ; đều diện 2 cái áo đẹp nhất của mình, mặc cho thiên hạ, bạn bè 'khen ngợi'. Nào là màu sắc chửi nhau; nào là 'người trong tranh', nào là bất chấp thời tiết
v. v. ... Chúng tôi giữ vững lập trường 'mục trung vô nhân', không cần ai; và, cũng không cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ; để chị tập việc quán xuyến gia đình, chị không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện, làm dáng nữa. Chị tự sắm những áo quần đẹp; nhưng cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho; thành ra mẹ không la rầy được -- mà ,chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong cho chị cao lớn thêm; hay, béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá; người chị bé nhỏ, lùn, thấp hơn tôi nhiều; và, lòng dạ chị lại khá sắt đá, nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả.
Tôi biết rõ tính mẹ tôi, khi có tiền chỉ thích giúp đỡ người khác;dù người ấy tiêu dùng một cách phí phạm; còn mình và con cái , thì phải hết sức kham khổ. Bà luôn luôn nhắc câu, 'Người ăn thì còn, con ăn thì hết'. Thành ra khi trong nhà, món gì ngon lành; là bà đem đi biếu xén tất cả các nơi, bạn bè, bà con quen biết. Có lẽ, mẹ tôi muốn cái gì cũng còn vĩnh viễn; nên gặp ai áo rách, quần vá -- là bà cho một cách sung sướng. Tôi tin là , mẹ tôi trong cuộc sống; sau khi ba tôi hưu trí; bà không cần phải dự lễ tiếp tân; hay, thết đãi quan khách với ba tôi, thì bà chẳng cần giữ lại một cái áo nào ra hồn.
Sau này, lúc bị ném ra ngoài đời tranh đấu cho cuộc sống của mình; tôi vẫn giữ tính nết không cần ăn diện, đã tập được như thuở còn sống với mẹ; mặc dầu lý do nhiều phước hay giảm phước, tôi không hề quan tâm . Thời kỳ làm việc ở Hương cảng [Hongkong]; tôi cố dành dụm tiền; để cuối năm, mua gửi cho mẹ tôi 10 cái áo gấm Thượng hải. Tôi nghĩ rằng trong 10 cá iáo ấy; bà sẽ tha hồ cho, tặng, bán; hay gì gì đi nữa; nhiều lắm là 9 cái thôi, ít nhất cũng phải để lại một cái cho mình. Và được như thế, là tôi thỏa mãn rồi.
Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm trọng; tôi phải xin nghỉ phép về sắn sóc, cũng không quên mang theo 10 áo gấm nữa cho mẹ tôi. Thế nhưng; lúc mẹ mất, tôi lục soát tủ áo để tìm đồ liệm theo; thì không thấy một chiếc áo nào, may bằng thứ gấm Thượng hải -- tôi gởi biếu mẹ hàng chục năm. Một người bạn trẻ nói với tôi:
- Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi. Không còn hy vọng! Không còn tương lai! Không còn mơ gì được nữa hết!
Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về hôn nhân; tôi về nước vì Mẹ; mà về đến nơi, chẳng bao lâu thì mẹ mất-- đúng là một thất vọng lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mà mơ!
Sau khi chôn mẹ bên cạnh cha xong; tôi trở về [Hongkong] làm việc. Và từ bấy giờ; dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp; tôi cũng không còn hứng thú gì nữa; không làm sao còn cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày xưa -- khi lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở 12. Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội mất; ba tọi thường nhắc đi nhắc lại mãi:
- Khi con cái còn nhỏ dại; húng nó chưa đủ hiểu biết, nên hay oán trách cha mẹ cấm đoán điều này, điều nọ. Lúc lớn lên có gia đình; 'sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ' -- lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng mình; thì, cơ hội đã không còn nữa!
Ba tôi mỗi lần nói thế; bao giờ cũng không nén được 2 giọt nước mắt rưng rưng. Còn tôi, sau này mỗi lúc đi phố; nhìn những hàng gấm màu sắc u nhã, dệt Long, Phụng; hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp; tôi lại như người lên cơn say, cố mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra; chợt nhớ mẹ mất rồi còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai! []
linh bảo
http://forum.phunuviet.org/yaf_postst56_Linh-Bao.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét