(http://news.wikivn.org)
thơ ca tồn tại cho đến ngày tận thế
ý nhi
tại tòa đại sứ thụy điển ở hànội, ngày 30- 11- 2015.
(ảnh in kèm bài)
" ... không tranh chấp, không giành thi phần, không có phương tiện để quảng cáo. Thơ tồn tại một cách tự nhiên, một cách hữu lý, như tất cả những gì tồn tại trong thế giới chúng ta ..." -- Ý Nhi phát biểu, trong buổi lễ trao giải thường Cikada, tại đại sứ quán Thụy điển ở Hà nội, ngày 30/ 11/ 2015.
Cách đây 40 năm, nhà thơ Italia, Eugenio Montale từng đặt câu hỏi,
" Thơ còn tồn tại được không, trong vũ trụ truyền thông đại chúng?"
Từ bấy đến nay, cái 'vũ trụ truyền thông đại chúng' ấy; ngày một phát triển, ngày một bành trướng, lấn lướt; và, vây chặt cuộc sống chúng ta.
Nhiều khi, ta có cảm giác ngạt thở vì chúng, không còn biết ngoảnh mặt đi đâu, không còn biết lắng nghe điều gì. Và; dường như áp lực này không dành riêng cho các nhà thơ, mà còn ảnh hưởng đến tâm trí các nhà chính trị -- những người vốn được coi là sắt đá, cứng rắn.
Tôi còn nhớ: trong một cuộc phỏng vấn cách đây vài năm, bà Julia Gillard; lúc bấy giờ đang là thủ tướng Australia, đã có một câu trả lời rất thú vị. Khi phóng viên hỏi: bà có quan tâm đến sự đồn đoán về ngày tận thế không, bà đã trả lời, đại ý:
"Có. Nhưng tôi e rằng K-pop sẽ hủy diệt thế giới, trước khi ngày tận đế đến."
Như chúng ta thấy; Thơ vẫn tồn tại. Không tranh chấp, không giành thị phần, không có phương tiện để quảng cáo. Thơ tồn tại một cách tự nhiên, một cách hữu lý; như tất cả những gì tồn tại trong thế giới chúng ta. Vì sao ư? Vì nỗi đau khổ và niềm hy vọng của con người. Tôi không nhớ ai đã nói c6u nói vừa quyết liệt, vừa tha thiết này; nhưng chắc chắn của một nhà thơ thực thụ. Một bài thơ là sự phát triển cuỷa một tiếng kêu.
Chúng ta có thể diễn giải sự đúc kết này bằng một câu nói khác:
'khi nào tiếng kêu của con người còn thì thơ còn. Sự nghèo đói, chiến tranh, những cuộc di dân, những vụ thảm át, bão lũ, động đất, sóng thần ... vẫn từng ngày diễn ra trên hành tinh này, ngay trước mắt chúng ta'.
và, con người với bản năng sống mãnh liệt, với niềm khao khát tự do, hạnh phúc; đã không ngừng tìm cho mình một con đường, một nơi chốn, không ngừng xây dụng, không ngừng hy vọng, bất chấp hiểm nguy, bất chấp cả cái chết. Không chỉ tiếng kêu thương; mà, cả tiếng gào thét, phẩn nộ, cả tiếng cười, cả tiếng reo ca sẽ là nơi bắt đầu những bài thơ. Do một đặc ân được ban riêng cho họ; chỉ các nhà thơ mơi nghe thấy tiếng kêu ấy, và có thể sáng tạo nên những bài Thơ.
Năm 2001, tôi có dịp dự trại mùa hè doTrung tâm William Joiner, thuộc trường đại học Massachu-
settes (Boston, Hoa Kỳ) tổ chức. Trong thời gian này, chúng tôi có 2 lần đọc thơ tại Santa Fe và Boston. Mỗi buổi đọc thơ đều có đông người tham dự. Thú thực, tôi có phần ngạc nhiên; vì sự im lặng của đám đông, khi nghe chúng tôi đọxc; và, những tràng vỗ tay dài, khi kết thúc mỗi bài thơ.
Ở cả hai nơi đều có cuộc trao đổi ngắn, khi buổi đọc thơ kết thúc. Tôi còn nhớ mãi: một nhóm người đang đợi chúng tôi tại cửa ra vào của hội trường. Ho tặng tôi những món quà nho nhỏ, như một cấy bút bi, một tấm bưu ảnh; có người còn gửi tặng mẹ tôi một bức tranh khắc gỗ, những bông hoa màu tím do anh tự làm. Một phụ nữ trung niên nói với tôi, chị thích bài thơ Tự do tôi vừa đọc. (qua lời Nguyễn bá Chung dịch trực tiếp). Họ bảo: khi tôi in [thơ] ở Hoa Kỳ, họ sẽ tìm mua. Bịn rịn mãi, tôi mới có thể chia tay họ. Đó là những người đến từ Bosnia. Họ tìm thấy trong thơ tôi sự đồng cảm -- thơ của một người Việtnam, nơi vừa trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc .
Trước Eugenio Montale 15 năm, một nhà thơ khác , Saint-John Perse (Pháp quốc) cũng từng lo ngại,
" Càng ngày càng thấy rõ sự tách rời giữa những hoạt động thơ ca và cuộc sống xã hội bị nô lệ vào vật chất".
từ bấy đến nay, khoảng cách giữa hoạt động thơ ca và xã hội tiêu dùng như ngày một nới rộng ra. Không ít người đã lo lắng: thơ không con đất sống, thơ sẽ bị tận diệt.
Như bằng một cách nào đó, thơ vẫn tồn tại. Chính St.John Perse đã có lời biện giải cho sự bất diệt ấy,
" Nhà thơ tồn tại trong con người sống nơi hang động; nhà thơ lại sẽ sống trong con người thời hạt nhân; vì chất thơ đó là phần không thể thiếu của con người ... Thơ hiện đại dấn thân vào sự nghiệp; mà, càng đeo đuổi, thì càng khiến con người được hoàn toàn là chính mình."
(...) - tạm lược 11 dòng. (Bt)
Tôi muốn được nhắc lại rằng: sự tồn tại của Thơ trong thế giới đương đại không phải là một thách đố, một cố gắng đương đầu; mà, lẽ tự nhiên là sự cần thiết. Gần đây, tôi nhận được cuốn sách
Thơ cần thiết cho ai? của nhà thơ Nguyễn đức Tùng, một người Canada, gốc Việt. Trong tập sách này, Nguyễn đức Tùng giới thiệu 10 nhà thơ đương đại Hoa Kỳ + Canada -- theo tác giả, là tinh hoa của thơ bắc Mỹ.
(...) - tạm lược khoảng trên 10 dòng. (Bt)
Cũng chính từ cuốn sách này; tôi còn được biết: Billy Collins vẫn có thể sống bằng tác quyền thơ, không cần làm thêm công việc khác -- và, trong buổi đọc thơ của Patrick Lane tại Vancouver, căn phòng có 300 chỗ ngồi đã chật cứng, có người phải đứng theo dọc hành lang để [chờ] xin chữ ký.
...
Xin đừng lo lắng cho Thơ. Dù cho trong 1000 người chỉ còn có 2 người yêu thơ (theo W. Symborska) thì; so với số người trên trái đất hiện nay, vẫn cón khá đông.
Và chăng, chỉ có ích cho một người, Thơ đã xứng đáng để tồn tại. []
ý nhi
[ i.e. hoàng thị ý nhi 1944 - ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét