những người thích dấu huyền -
đặng trần huân- văn mới, usa 1998.
chọc mù thiên hạ
tạp văn : đặng trần huân
- câu trả lời sai... làm cho người hỏi dốt thêm, thì gọi đó là chọc mù ...
- la P... Respectueuse / Sartre và Les Mendiants des Miracles/ Gheorghiu, là 2 cuốn viết về kỳ thị chủng tộc ???
- ' Võ nguyên Giáp giáo sư sử địa của Thăng Long và ...là anh em bạn rể... Đặng thái Mai lấy chị, Võ nguyên Giáp lấy em ' ???
- ... nhà văn Thế Phong mắc nhiều sai sót, giống cái cho đực, số it, phang thành nhiều , bataillon vietnamien, thành vietnamienne, tiệm cà phê La Roche Noire , ra Le roche Noir . wingman hóa wingmen, v.v...
- ... một văn hào gái Hà nội , Phạm thị Hoài /... Marie Sến - khoe , sến, ở bắc không xài, ấy là , tử sen, và xén mà ra ...??? đặng trần huân khuyên, đọc Cô hàng xén / Thạch Lam, thay vì, thị Hoài phải dựa cột ...
Đọc trên báo. ta hay gặp mục Gỡ rối tơ ,lòng, thường do một người có kinh nghiệm trên đường tính giải đáp, và, đưa ra lời khuyên cho đọc giả rắc rối với tình duyên. Lời khuyên có thể được nghe, có khi bị phản đối, tùy theo ý, và, quyết định sau cùng của người hỏi. Người trả lời không bắt ép ai cả; lời khuyên chỉ có giá trị cố vấn mà thôi.
Nhưng cáo mục Giải đáp thắc mắc, thì rắc rối, phức tạp hơn nhiều. Vì độc giả hỏi lung tung , miên man, đủ mọi đề tài, mọi đề tài, mọi lãnh vực. Một người dù thông thái đến đâu cũng không trả lời hết được, và, câu trả lời phài thật chính xác, để giúp mở mang kiến thức cho những người hỏi, chứ không có tính cách cố vấn nữa. Do đó, câu hỏi, so một người trả lời, thường do nhiều người. Vì, nếu trả lời sai, người hỏi tin là đúng, thì, không có giá trị mở mang kiến thức, .làm cho người hỏi dốt thêm, thì , người ta gọi là câu giải đáp chọc mù thiên hạ.
Nhớ lại chuyện xa xưa, khi nhà văn quá cố Nguyễn Vỹ, chủ trương tờ nguyệt san Phổ thông, hồi thập niên 60 ở Sài Gòn, có mục giải đáp thắc mắc, cô Diệu Huyền phụ trách lấy tê mục báo Mình ơi Không biết có bao nhiêu người góp ý kiến trong mục trả lời, nhưng, Diệu Huyền chính là bút hiệu [ khác] của Nguyễn Vỹ. Có lần, [một] học sinh viết thư thắc mắc, xin cô Diệu Huyền giải đáp thắc mắc.
1- khi nói về nhiệt độ, người ta thường dùng chữ C và F, với con số chỉ nhiệt độ, là nghĩa gì ?
2- muốn tra cứu, mua bộ từ điển gồm 6 tập, Larousse de Vingtième Siècle, thì phải tìm mua ở đâu ?
3- cuốn La P... Respectueuse ( Gái điếm [đáng kính] !) của J.-P. Sartre, và, cuốn Les mendiants des Miracles của V,C Gheorghiu ( Những kẻ ăn mày phép lạ) có phải là 2 cuốn
tiểu thuyết kỳ thị chủng tộc hay nhất từ trước tới nay, không ?
Báo Phổ thông đã trả lời:
- hai chữ C và F trên nhiệt kế, viết tắt từ Chaud ( nóng )& Froid ( lạnh). Bộ từ điển,em hỏi, hiện ở Sài gòn chưa có bán.
- chưa có tiêu chuẩn nào xác định được 2 cuốn tiểu thuyết của Sartre và Gheorgihu, là 2 cuốn [ viết về kỳ thị chủng tộc] hay nhất ?
Ba cấu trả lời trên không đúng.
Câu thứ nhất, thực ra C và F,. chữ viết tắt của Celsius và Farenheit, để chỉ cách nhiệt độ khác nhau của Mỹ và Pháp . Chữ C đôi khi cũng có người hiểu là centigrade, vì, trong thư viện ở đường Gia Long ( Lý tự Trọng) và trong tiệm sách Xuân Thu ( Portail) trên đường Tự do
( Đồng Khởi).ở Sài Gòn, có bày bộ từ điển Larousse du Vingtième du Siècle. -.
Câu thứ 3 đúng về ý chính, là, không thể xác định văn phẩm nào hay nhất hoặc, hay nhì, nhưng, sai ở chỗ,, trả lời 2 cuốn đều là tiểu thuyết.. ( cuốn của Sartre là một vở kịch).
Bán nguyệt san Bách khoa số 97 ra ngày 15-1-1961, đã nêu lên, việc trả lời cầu thả báo Phổ thông - và- ngay sau số 98, ra ngày 1-2-1961, Nguyễn Vỹ nhận sai lầm. Thái độ của nhà văn Nguyễn Vỹ thật đáng ca ngợi, ông đã không lấp liến sơ sót của mình. Có khá nhiều cơ sở truyền thông, bị phê bình vì mắc lỗi, lại cãi chày, cãi cối, hoặc lờ đi, vì tự ái.
Báo Khởi hành / hội văn nghệ sĩ Quân đội, xuất bản tại Sài Gòn, số ra ngày 23-7-1970, đăng loạt bài Theo chân nhà văn, nhà thơ tiền chiến / Kim Nhật . [Tác giả bài viết] là một sĩ quan miền bắc, bỏ hàng ngũ, hồi chánh, [đáng lý] Kim Nhật phải hiểu rõ về các nhân vật chóp bu CS., nhưng, ở trang 10 số báo trên, Kim Nhật viết,
' Đặng thái Mai, nguyên là tiến sĩ triết học nổi tiếng t ong giới trí thức Hànội lúc bấy giờ, nhận chân giáo sư triết học tại trường tư thục Thăng Long, do Hoàng minh Giám làm hiệu trưởng, vừa là bạn đồng nghiệp của Võ nguyên Giáp, giáo sư sử địa của Thăng Long,và, cũng là anh em bạn rể của Võ nguyên Giáp, Đặng thái Mai lấy chị, Võ nguyên Giáp lấy em ...'
Những người đã lớn tuổi, đều biết Võ nguyên Giáp lấy con gái Đặng thái Mai ( theo đúng tài liệu CS, phải là Đặng thai Mai, không dấu sắc). , chứ không phải lấy em vợ ông này. [ Võ nguyên Giáp] là con rể Đặng thái Mai. Bài của Kim Nhật, nếu được in thành sách lưu truyền, độc giả trẻ tuổi lớp sau tin vào một người hồi chánh hiểu rõ chuyện ở miền bắc, tham chiếu điều Kim Nhật viết ra, sẽ thành một sai lầm nghiêm trọng.
Còn có những trường hợp, người viết tưởng mình viết là đúng, nhưng phạm phải những sai sót quá sơ đẳng, mà không biết. Như trường hợp nhà văn Thế Phong, hiện còn ở Việtnam, viết cuốn Hồi ký ngoài văn chương, do nhà Đồng Văn xuất bản ở Hoa Kỳ, năm 1996. Khộng kể nội dung có tính cách phô trương, tác giả cho mình là kiến thức rộng, ngoại ngữ thông thạo, nhưng, viết thì nhiều chỗ sai, cả chính tả lẫn nguồn gốc, những sai lầm hiển nhiên, không thể coi là lỗi do ấn loát. Chẳng hạn như, những đoạn trích ngắn sau đây ,
cái bataillon viêtnamienne ( tr. 68) , không phải là partisan, hoặc bataillon viêtnamienne
( tr. 162), qua tiệm cà phê Le Roche Noir (tr. 168), Nguyễn bùi Thức hiện ở Huê Kỳ xuất cảnh theo diện Humanitarian Order, H.O. ( tr. 27), lúc ấy anh còn là wingmen, bay theo một leader (tr.242), anh ta mới đi nhậu la de (tr. 126).
Nếu , đã học tiếng pháp, trình độ trung bình, học sinh nào cũng biết danh từ pháp có giống đực, giống cái, và, tĩnh từ cũng phải có giống phù hợp với danh từ. Bataillon là tiểu đoàn , giống đực, thì tĩnh từ cũng phải giống đực, và, phải viết bataillon viêtnamien . Roche là tảng đá, giống cái, thì lọai từ và tĩnh từ đi kèm đều phải là giống cái, không thể viết le và noir, mà, phải viết La Roche Noire. Đoạn văn này, Thế Phong kể tới một quán ăn ở Vũng tàu. Đó là một quán ăn rất đẹp trên hòn núi cao , và, nhìn ra biển, vùng Ô Quắn, do một Pháp kiều làm chủ. Người ta nhớ mang máng , thì tên quán đó là L' Auberge aux Roches Noires , hoặc Roche Noir, và, trong trường hợp này, rocher giống đực, nên, dùng tĩnh từ noir, hoặc, noirs cũng được, nếu là số nhiều .
Tiếng anh, [mà]Thế Phong dùng, [cũng dùng] loạn xa, Hai chữ HO phát xuất từ ký hiệu các danh sách cựu tù nhân chính trị mà Việt Cộng gửi cho phía Mỹ, từ danh sách đánh số H 01,
H 02, H 09, H 1O, HO 20, H 30 , H40 v.v..., không viết tắt của chữ gì cả, đã bị nhiều nhà báo hải ngoại, hiểu lầm là Humanitarian Operation. Rồi cũng có người suy ra High Officer, là Humanitarian Object.
Nay, đến Thế Phong ở lại trong nước, gần 10 năm, sau ngày các tù nhân HO đầu tiên xuất cảnh, lại bịa thêm 2 chữ HO, nguồn gốc mới là Humanritarian Order. Rồi chỉ có một phi công lái tàu bay theo trưởng toán, thì, tại sao Thế Phong dùng wingmen, số nhiều, mà không xài wingman, số ít ?
Đến chữ la de, thì, sự sai lầm không là riêng của Thế Phong, mà, rất nhiều người cầm bút, sinh quán ở miền bắc đều mắc phải. Như khi, người miền bắc hay bắt chước trong Nam, không nói đi dô ( đi vô), mà, nói đi dào ( đi vào ) vậy. Thật ra, đồng bào trong Nam, đều viết đúng là la ve, khi đọc thì là la de, như thói quen phát âm chung cho các âm thanh d. ( dê). Người miền bắc lầm lộn nói d và cũng viết d luôn. Nguồn gốc la ve, do phiên âm từ chữ bière của chữ pháp. Cũng có bạn nói rẳng, khi uống la ve, thì uống bằng ly, và, tiếng la ve phát sinh từ chữ verre , cái ly, là giống đực ( le), chứ không phải là giống cái, ( la).
Cái sai trong các bài báo thì nhiều lắm, khó lòng tránh. Nhưng trong sách, thì phải thận trọng hơn, nhất là trong hồi ký. Vì, người viết hồi ký, kể chuyện thật, nhưng, có liên quan tới thời sự, thì, mới đáng xuất bản cho mọi người coi, để, những người thuộc các thế hệ sau, có thể xem đó, mà, biết phần nào về cái xã hội mà ông cha đã sống. Nếu, chỉ nói hoàn toàn chuyện riêng tư, như Toan Ánh, đã in một cuốn hồi ký, kể chuyện hiền thê của ông , sau khi bà qua đời, thì, ông đâu có bán, mà chỉ để tặng riêng bạn bè, thân quyến.,
Cái tật của người viết hồi ký, là hay khoe mình, giấu biến, và quên khuấy những cái dở của mình. Cũng chấp nhận được đi, nếu thành thực. Tôi chỉ kể cái hay có thật của tôi, chứ, không nói khoác thêm cái hay đó, bịa ra cái hay đó, và, tôi chỉ giấu cái dở, chứ không cãi là không có cái dở.
Vì thế, khi đã có tham vọng làm một nhân chứng lịch sử, thì, các sự kiện phải cho đúng, điều nào ngờ ngợ, hay không nhớ, thì đừng bịa ra, để đánh lừ độc giả, có khi sai cả địa danh lẫn nhân danh.
Cón cái tật suy luận, để ra vẻ mình uyên bác, cũng đưa tới hậu quả làm đốt những người nghe và tin. Khi còn ở [trại học tập] , tôi ở chung với một anh bạn làm thơ, anh nói anh rất giỏi chữ hán . Anh [huênh hoang] rằng tự học có nửa năm mà đọc thông được tiểu thuyết tàu nguyên bản. Cả Tứ thư, Ngũ kinh, anh cũng đọc được, am hiểu tốt. Điều trên, tôi hơi tin; nhưng, điểu dưới, e là nói dóc, nhưng, tôi không dám bắt bẻ, bởi vốn hán tự của tôi chỉ đọc nổi ở bộ bài tam cúc hay mạt chược mà thôi .
Tới một kỳ được phép tiếp tế, tôi nhận được gói quà từ Mỹ gửi về cho gia đình, và, các con tôi gửi cho mỗi thứ một chút, nào bánh, kẹo, đồ hộp, thuốc lá, diêm . (quet). Trong 1 bao diêm có giấy gói mang tên hiệu một tửu lầu ở San Francisco. Trên mặt bao diêm, in 1 cây đèn lồng, tên tiệm bằng tiếng anh, lantern ( đèn lồng). Ở cảnh thiếu sách, vở, tôi đành cầm bao diêm , hỏi anh bạn từng khoe đọc tốt chữ hán, chỉ suy nghĩ một [tíc - tắc], anh phán ' đèn lồng'.
Tôi gật gù chấp nhận, khâm phục kiến thức hán ngữ của anh. Hai chữ nhiều nét như vậy, hẳn phải là hoa đăng. Cái tên hoa đăng vừa hay, vừa có âm đọc, giống như lantern + tranh vẽ cái đèn lồng.
Mãi khi sang Mỹ, có dịp cùng vài bạn vào chính tiệm này ở gần San Francisco, tôi mới phát hiện tên tiệm là Lan Đình. Chữ nho lan đình với tiếng anh, lantern, không có nghĩa gì liên quan với nhau cả - nhưng - chủ nhân dùng chữ lan đình cho dễ nhớ. [Chỉ vậy thôi].
Cũng như ờ sài Gòn, trước 30-4-1975, trên đường Tổng đốc Phương, có một tửu lầu Trung hoa, có tên là Bạch Hỷ, bên cạnh chua thêm tiếng anh Back Here, đọc lên, từa tựa Bạch Hỷ, nghĩa của nó là xin trở lại.[ Chỉ thế thôi], và nhớ lại anh bạn trong trại cải tạo dịch cương ẩu, nghe cũng hợp lý.
Cái lầm còn tạm tha thứ được, nhưng cái bịp thì khó lòng tha thứ lắm, nhất là, khi nhờ cái uy tín mình đã có để bịp thiên hạ. Chuyện một vài tờ báo lớn dùng những hình ảnh để câu độc giả, chuyện của vài tờ báo uy tín tại Mỹ, khi tường thuật những trận đánh tại Việt nam, trước 30-4-1975, đã dùng hình ảnh không phải chụp trong trận đánh, nên đã có nhiều người nhận ra.
(...)
Cũng không thể bỏ quên , một văn hào gái [Hà nội], là Phạm thị Hoài , khi cho nhà xuất bản Thanh Vân, Los Angeles, CA in Marie Sến, [ tác giả] khoe khoang bằng cấp, chữ nghĩa. Thị Hoài nói, ' sến' ngoài miền bắc không dùng ,[ấy là] từ 'sen' và 'xén' mà ra. Thị Hoài dành cả một phụ lục để giải thích 2 chữ Marie Sến. Thị Hoài viết ,
...' có người cho ' sến' quan hệ vời' sen' ( trong con sen) và' xén' ( trong' cô hàng xén') đều chỉ có gái bình d ân hoặc hạ lưu '. ( tr. 157).
Có người lả người nào vậy, hay là, chính là cây viết gái họ Phạm, nhưng, không muốn chịu trách nhiệm về mình. Chữ sen không biết có tự bao giờ, nhưng, ở miền bắc, chắc chắn đã có chữ con sen, ít nhất từ thế kỷ 19, và, do những bậc sinh thành của lớp người hiện nay ở lớp tuổi 70 biết chuyện. Còn cô hàng xén là những cô bán tạp hoá cỡ nhỏ, một hình ảnh cần cù khá đẹp của những cô thôn nữ miền quê Bắc việt ngày xưa. Thị Hoài sinh sau, đẻ muộn không biết gì, nên, mới dám hạ bút, xếp lọại nghề hạng xén thuộc lớp hạ lưu trong xã hội, như ma cô, trộm cắp, ăn mày, đĩ điếm. Thị Hoài không biết, thì có thể đọc truyện Cô hàng xén của Thạch Lam... Thị Hoài đã không biết gì, mà lại, đồng hoá cô sen và cô hàng xén là một, xếp vào giai cấp hạ lưu..., như vậy, thì tội cho hậu thế lắm đấy !. (...)
Để khỏi phụ lòng tin của những độc giả, vì nghèo nàn, chinh chiến, không được học hành, tới nới tới chốn, phải đọc sách, báo nào để trau dồi kiến thức - mà lại - gặp những tác giả
[ như Thị Hoài] cũng dựa cột mà nghe - thì thật là bất hạnh .
THÁNG HAI, 1997
đặng trần huân
( Sđd - tr 55- 65)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét