Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013
nhà văn tác phẩm cuộc đời - thếphong - 2
nhà văn tác phẩm cuộc đời 2
thếphong
2
!6 tháng 10 năm 1952, Quân đội Viễn chinh Pháp thất trận toàn diện ở Nghĩa Lộ. Từ ngày đó, tôi mất liên lạc với mẹ tôi ở nông trại Làng Bữu. Trước đó 2 năm, tôi về Hànội học, vì một lý do suýt bị mất đầu. Tôi viết chi tiết này, cũng như nhiều chi tiết khác nữa trong cuốn tự truyện Nửa Đường Đi Xuống. Năm ấy, tôi học đệ tứ và cũng năm ấy tôi bắt đầu viết văn. Sau một buổi ghé qua Nhà Thờ Lớn Hànội, để nhỉn chiếc quan tài của thiếu tá Giradin tư trận ở Nghĩa Lộ, đem về quàn tại đây. Chẳng phải là thương tiếc Giradin, nhưng tôi đến đây để như tìm thấy quê hương Nghĩa Lộ, qua chiếc quan tài tại chỗ kia. Tôi nhớ đến một giai thoại về đời sống viên thiếu tá Pháp. Hắn là con một một vị Giám binh trước kia từng đóng đồn ở Nghĩa Lộ. Mẹ hắn là người Thái . Vài chục năm sau, hắn trở lại đây, mẹ con gặp nhau; nhưng nhất định hắn không nhận mẹ. Khi hắn chết, nhưng người Nghĩa Lộ đều cho hắn là xứng đáng đời ! Vì hắn bất hiếu. Còn tôi, tôi rất quí mẹ tôi, khi mất liên lạc với Người rồi, tôi buồn như chính hình hài mình thiếu thốn , như cụt mất đi một cái gì quen thuộc có gần nhất. Ngày còn nhỏ, ba tôi đánh đòn chi tử, mẹ tôi bênh, vì Người thường kể lại rằng :
" Con cầu tự chùa Quan Thánh Yên Bái ( một ngôi chùa cách noi xử 13 liệt sĩ Yên Bái chừng dăm trăm thươc ) co tật, tôi là đứa thứ ba còn sống sót trong 5 mụn con. "
Thuở nhỏ, tôi rất nghich ngợm, về nông trại là đuổi gà, đuổi vịt. Rồi bị gai góc cào xé khắp chân tay, mình mẩy. Mẹ tôi liền gọi về, đe dọa , vì biết tôi rạn đòn, nên chỉ còn cách này, nếu tôi không nghe lời, người dọa sẽ chết. Thương mẹ thì thương nhiều, song tôi vẫn không thể thôi nghịch. Thế là mẹ tôi khóc. Tội hối hận, lên giường nằm chung với Người. Cơm chiều hôm ấy bỏ, cho đến hôm sau mới dậy. Khi lớn lên rồi mà tôi vẫn có cảm tưởng rằng: không bao giờ tôi có thể xa mẹ tôi được !
Cho tới ngày 9 / 3/ 1945, Quân đội Viễn chinh Pháp thất trận , bị quân đội Nhật xua đuồi , tràn về Làng Bữu * , rồi lần qua Nghĩa Lộ ngược lên Lào Cai để trốn chạy sang Tàu, tướng Pháp Alexandrie gặp ba tôi trò chuyện bằng tiếng Pháp - vì thế - ba tôi bị VM bắt đi an trí , vì họ sơ rằng ba tôi ở lại có thể sẽ theo Pháp, nếu họ trở về. Nên nhớ rằng, đoàn quân của tướng Alexandrie sang Tàu vào lần bị Nhật đảo chính 9 - 3- 1845, nay họ trở lại xứ Thái làm bàn đạp, trước khi trở lại tái chiếm Hànội.. Đoàn quân này được mệnh danh là
Troupe Francaise en Chine .
------
* THƯỢNG BẰNG LA : 1 ở h. Văn Chấn , t. Yên Bái, sau thuộc t. Nghĩa Lộ, rồi thuộc t. Hoàng Liên Sơn, nay trở lại thuộc t. Yên Bái ( tr. 528 Sổ tay Địa Danh Việtnam / Đinh Xuân Vịnh - Nxb Lao động, 1996.
- một cuốn sách rất giá trị về địa danh Việtnam ,
- Đinh Xuân Vịnh sinh 1915 ở Hà Tĩnh, từng công tác ở Phòng Hành chính Ủy ban Hành kháng tỉnh Nghệ An. Nghỉ hưu từ 1974, sống ở Hànội, Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Việtnam.
( Chú thích: 2013).
---------
Những ngày tháng này , tôi tập cầy ruộng, nhổ mạ, cấy lúa . Một thời gain sau, vì thấy tôi khá Pháp văn, nên tôi được bổ nhiệm làm thông ngôn cho viên quan Pháp chỉ huy.
Không hiểu vào t hời trung úy Logier hay Defoly, nhưng sĩ quan Pháp mến tôi, song, chỉ có trung úy Henri Guilleminot, người đã giúp tôi nhiều cho sự trưởng thành sau này. Khi ông ta về Pháp nghỉ phép, ông xin mẹ tôi cho tôi theo qua Paris , ông có nhà ở 22 Boulevard Flandin , để tiếp tục học hành . Nhưng tôi là con một, nên không khi nào mẹ tôi chấp thuận. Khi ông trở lại Việtnam lần 2, Henri Guilleminot thăng lon đại úy và đến thăm tôi ở Hànội. Thường ra, ông vẫn viết thư khuyên tôi chịu khó học hành, để sau này trở thành một công dân tốt của Việtnam . Ông còn gửi tiền cho tôi thường xuyên, không bằng bưu phiếu mà gửi tiền trong thư thường. Khi 2 ngàn, lúc 1 , cứ như vậy trong 2, 3 năm liền. Cho đến ngày tôi vào Saigon, tôi bị mất liên lạc với ông ở Điện Biên Phủ.
Tôi còn nhớ, trong 1 lá thư sau cùng, ông có nhắc tới thiếu úy Raymond Maikowack, anh chàng thượng sĩ người dân đảo Corse, có mặt ở 3ème Compagnie, Ier Bataillon Thái với chúng tôi ở Làng Bữu, nay cũng đang chiến đấu tại mặt trận Điện Biên Phủ.
Sau chiến trận Điện Biên Phủ, Guilleminot được chuyển sang Quân đội Quốc gia Việtnam, chỉ huy CID * ở Sông Lũy ( Phan Rang) vào những năm 1955- 56. Tôi có lên Sông Lũy thăm ông ta, rồi đọc cuốn Les Rescapés de L'Enfer, trong đó tác giả Bornet nhắc tới đại uy Henri Guilleminot và cả viên thiếu úy dảo Corse, Raymond Maikowack.
-----
* Centre D' Instruction Divisionnaire / Trung tâm Huấn luyện cấp Sư đoàn. .
Thời kỳ này tôi mang theo người bản thảo đang viết dở dang, Người thương binh Liên khu . Hàng ngày, tôi mang bản thảo ra một ngôi chùa Chàm, đặt khẩu Carbine bên cạnh ngổi viết. Chiều về, ra Sông Lũy tắm. Tôi rong chơi khoảng 2 tuần rồi về lại Saigon.
Năm 1957, Henri Guilleminot về Paris ,. rồi từ đó, tôi không còn nhận được tin tức gì nữa. nên có một truyện ngắn nói về quân đội, tôi đề tặng ông ta là để kỷ niệm thời gian chúng tôi ở 3ème Cie-- đó là truyện ngắn Người lính Casablanca.
Những ngày tiếp theo, tôi về Hànội học. Rồi mất liên lạc gia đình. Bơ vơ. Kiếm sống. Nhịn đói của lần đầu cảm thấy nhục nhã trong đời, vì điều này càng khổ hơn, khi xung quanh minh, họ đều no đủ cà. Những cuốn truyện dài chưa đặt tên sắp hàng trong đầu óc. Một số bạn bè phản bội. Sự ô nhục chất chồng lên đầu cổ, không thể sống được nữa; tôi dự tính đi Saigon. Hàng ngày, chỉ còn chơi được với một người bạn thân, Nguyễn Thế Hiển. Và nhà Hát Lớn Thành Phố có mái hiên rộng, tôi nghĩ đến chỗ ngủ nhờ, sau những đêm lang thang. Để rồi, Hiển nói đùa rằng : " mày sẽ có triết lý mái hiên rồi đấy nhỉ ? " Một vài người khác nữa giúp toi tiền nong để làm lộ phí vào Nam-- như Khải, con chủ hiệu Tân Vinh ở Hàng Đào.
Hành trang vào Saigon trước cuộc di cư 1954. Trong túi tôi chỉ có 1000 đồng. và một tấm lòng ưa mạo hiểm của tuổi trẻ. Vậy nếu có khổ sở, đừng nên ta thán ! Tuy vậy, kinh nghiệm cua đại-học-đường-cuộc-đời không dễ quên , nên những dòng chữ con kiến nối đuôi nhau kéo dài như đường quốc lộ Nam Bắc, đã hợp lại thành tự truyện " Nửa Đường Đi Xuống". mà ngay trên đầu trang, tôi đã ghi câu này :
" Ngày xưa, Kropotkine cho rằng : " Di sản độc nhất riêng tôi có là tôi " . Anh hài lòng về câu nói ấy, đặt câu này trong truyện đời mình để tặng 2 người thân yêu MẸ ANH & EM ".
Tôi được sinh ra vào ngày 10 tháng 7 năm 1932. Nơi sinh Nhà thương Yên Thái, tỉnh Yên Bái -- mẹ tôi kể lại rằng -- từ nhỏ đã rắn mặt, bà cụ nằm dài hàng 3 tuần lễ ở nhà thương yên Thái . Khi sinh tôi ra, chưa bao giờ nước lũ lớn như vậy, ngập cả thành phố. Lớn lên, tôi đã được nuôi nấng với sự nuông chiều hết mức. Chỉ trừ có ba tôi là hay đánh đập, mà tôi cho rằng người ghét bỏ tôi. Tôi theo ba tôi đi dạy học ở nhiều nơi, từ trường Động Lâm,
Hiền Lương ( huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ ) trường Đại Lịch ( huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái )...
.
Tôi thi đậu thủ khoa Tiểu học năm 11 tuổi ở Nghĩa Lộ. Ở giai đoạn này, tôi đã biết yêu, dâm tính nẩy nở rất sớm. Kể ra, bây giờ tôi không nhớ được có bao nhiêu mối tình: tình đầu, tình bây giờ... cuộc tình nào cũng tha thiết như mối tình đầu. Chỉ có thời gian và độ của tuổi yêu trưởng thành vào thời đoạn nào, mới có thể cho rằng giai đoạn ấy yêu ai nhất mà thôi.
Khi còn ở nông trại Làng Bữu (xã Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái ), bắt tình với sơn nữ Hoàng Thị Hải . Những buổi chiều đi học về cùng trên một đường. Tôi hãy còn nhớ, một lần kỷ niệm đưa thư tình. Tôi sắp đặt trên một đoan đường, vì tôi không đủ can đảm đưa tận tay cho Hải. Tôi bèn núp trong bụi, vứt lá thư trên con đường ấy, để chờ khi nàng đi tới là nhặt lấy. Nhưng bất đồ, giữa khoảng ấy có nhà, một thiếu niên khác lượm mất, và chúng tôi gây gổ với nhau. Sau này, tôi viết vào trong vở của nàng một câu " Je vous aime ". Hải học dưới tôi 2 lớp , nên không biết tôi viết gì, rồi đưa tập vở lên mách ông giáo. Ông giáo ấy còn trẻ, sẵn có mối thù với tôi, nên ông ta chuyển lên ông hiệu trưởng , ba tôi định đoạt. Tôi bị nọc ra ăn roi và bị quì hai tiếng đồng hồ. Sau này, khi chúng tôi yêu nhau rồi, nhắc lại chuyện xưa; Hải chỉ cười và bảo tôi: " sao không viết bằng tiếng Thái hay tiếng Việt ?"
Những buổi chiều vàng Viêt Bắc, chúng tôi đi bên nhau, có khi nàng đi nhặt rêu, xúc cá; có khi nằm bên nhau trong túp lều nương giữ trâu. Của không bao quên những lần bị mắt bắt dê ở trong căn nhà bỏ trống ở bản Khe Phưa . Căn nhà trống này của đôi vợ chồng trẻ có con chết, rồi họ tin ngay rằng có ma quỉ ám ảnh, nên không ở nữa. Cho đến Ngày Lớn 1945 khởi sự, chúng tôi vẫn sống bên nhau, thời kỳ Quân đội Pháp tái chiếm Làng Bữu, tôi mất nàng từ đó.
Tiếp theo, đến thời kỳ Pháp đóng quân ở Làng Bữu , tôi bắt tình với cô Quán . Người con gái Thái có chồng là lính. Nàng bị ép buộc gả chồng, anh lính partisan . Anh lính này hành
quân tảo tảo thanh bắt gặp, thấy Quán đẹp, nên buộc phải hứa lấy hắn, thì hắn dẽ bảo đảm nàng không phải là Việt Minh . Khi về đồn, gặp nàng, tôi say mê nàng cho tới khi phải giã từ Làng Bữu về Hànội học, vì biến cố đó, tôi suýt bị mất đầu.
Tôi không còn đủ thời gian ít ỏi nhất gặp từ biệt nàng, chỉ còn cách tim bãi cát ướt, hoặc chỗ đất mềm, in bàn chân trần trụi lên đó , mà hy vọng nàng bắt gặp ,để nhận ra vết tích người yêu dành cho người yêu.
Trải qua bao nhiêu hiểm nguy, khi lên máy bay ở phi trường Nghĩa Lộ về Hànội , tôi chợt nhìn thấy hình ảnh Quán ở phía dưới, ôi chao thật buồn ! Chị nuôi và mẹ tôi hết sức giận, vì mối tình này, cho rằng chẳng thiếu gì con gái, sao lại phải yêu một người đàn bà đã có chồng? Nhưng tôi đâu có nghĩ vậy ?
Về Hànội học, tôi lại mê một cô bạn học, cô Đặng Thị Ngọc Oanh . Nàng và tôi là 2 học sinh giỏi Pháp văn nhất lớp, vì vậy, mối tình này kéo dài đến gần 10 năm: Hànội 1950 , Saigon 1954, 1955, 1956,1957, 1958, 1959, 1960 .
Dạo ấy, vì nhiều lý do xúc xiểm, nhất là luân lý xã hội còn vây chặt -- tôi cho rằng -- Oanh là con một bà chủ bán bar ở Hànội, nên lững lờ, lúc yêu thật lòng, lúc lại muốn quên . Oanh lấy chồng, sau đó ít lâu nghe tin nàng tự tử hụt, rồi chúng tôi lại gặp nhau một lần nữa ở Saigon. Khi ấy nàng là y tá Bệnh viện Chợ Rẫy, còn tôi, tên viết báo , lúc có việc lúc không, thuê nhà ở sau Nhà thờ Bắc Hà ( Saigon 10). Chúng tôi không cần lễ lạt, hôn nhân, vì sự trở lại cửa hai quá muộn để chung hợp.
Chính lần gặp Oanh sau , tôi dự định cắt đứt mối tình với Cao Mỵ Nhân . Trước mối tinh với Cao Mỵ Nhân là Linh Bảo. Những mối tình đáng nhớ nhất đấy thôi. Còn nhiều, nhiều nữa, nhưng bạn đọc cho phép tôi gác, bỏ qua một bên , hoặc đã kể trong tiểu- thuyết- tự- sự- hóa khác. .
Linh Bảo, một nữ văn sĩ, hơn tôi 6 tuổi. Phải nói rằng mối tình này say đắm tôi không ít. Hàng ngày, tôi đánh máy cuốn sách phê bình văn học Lược sử văn nghệ Việtnam và mong thư Diệu Viên tên thật Linh Bảo ) từ Hong Kong gửi về.
Dạo ấy, tôi sống chung với Văn Quang, một trung úy văn sĩ gọi tôi về ở, anh nuôi cơm . Nếu lần ấy, tôi không gặp Diệu Viên , chắc tôi đã muốn buông cuộc đới ra khỏi tầm tay rồi. Cũng cần nhắc lại thời đoạn sống đau đớn ấy của tôi, được nếm cay đắng cuộc sống mật đắng văn nghệ. Tôi ăn chịu 6 tháng tiền ăn, gần 2000 đồng tiền thuốc lá ở Xóm Chùa - Tân Định, để ngồi lì ở nhà viết bộ sách phê bình văn nghệ chết tiệt kia ! Rồi chủ nhà thúc giục trả nợ, hai vợ chồng Hai Nụ cho thuê nhà 150 / tháng, cơm 200 đồng / tháng, họ đều là thợ thêu chuyên nghiệp, chị vợ báo cho biết là hết vốn để nấu cơm cho tôi ăn tiếp . Ý nghĩ lóe trong đấu, thôi đành phải cuốn gói ra đi trốn nợ . Nhưng còn khoảng 2000 cuốn sách đủ loại phải bỏ lại, mà trước ngày dự tính ra đi , tôi sẽ xé vụn rồi chất chồng lên giường nằm đầy ngút ngọn. Tuy khổ sở đã nhiều, từ ngày bỏ nhà bà cô ở Hànội ra đi, làm phóng viên báo Thân Dân, Dân Chủ + những ngày lang thang đói khát ở Hànội; tôi chưa bị xáo động mạnh bằng lần này.
Đem bản thảo đi bán, một nhà xuất bản bằng lòng in, trả tập đầu 10 ngàn đồng, in lần thứ nhất 3000 cuốn -- khi ký giao kèo, tôi nhận trước 5000 đồng. * Nhưng không hiểu sao anh Lê Văn Thoan, chủ nhà xuất bản Bông Lau lại bỏ dở, không in. Nên tôi không còn biết bấu víu vào đâu để có tiền trả nợ vợ chồng Hai Nụ .
-----
* Nhà văn hậu chiến 1950- 1956 ( tập 4 trong bộ Lược sử văn nghệ Việtnam 1900-1956 )
.
Tôi có tật, đặt mình xuống ngủ ngay, sáng dậy rất sớm. Nhưng khoảng thời gian dự tính sắp bỏ của chạy lấy người , tôi ngủ lì, dậy rất muộn.
Lại một lần nhớ đến ba tôi, chẳng là người thường bắt tôi dậy sớm tập thể dục. Xưa, tôi oán người, vào tuổi 11. 12, sáng dậy muộn mà trưa lại đánh một giấc ngủ dài, tối ngủ sớm, sao vẫn còn thèm ngủ, ngáp văt liên hồi. Lúc lớn khôn, mới cảm thấy rằng ích lợi của sự nuôi dưỡng sức khỏe, và muốn tỏ bấy lời cảm ơn, thì làm gì người còn sống nữa !
Nhớ đến người, tôi nhờ 2 điều : thứ1, nét chữ người viết rất đẹp và hình như ba tôi còn là một văn-sĩ-thiếu-hụt thì phải ? Tôi còn nhớ bút hiệu VỊ NGUYÊN , ký sau mỗi trang nhật ký của người .. Và không ngờ rằng sự thiếu hụt kia, để sau này đứa con là tôi, tiếp nối một cách hiển hách. Thứ 2, điều mà tôi nhớ lâu nhất về người, bằng 1 kỷ niệm thật đắt giá , dự chi đánh đổi cả mạng sống.
Ở nông trại Làng Bữu có 1 con suối, mỗi lần nước lũ, nước chảy xiết và cực kỳ nguy hiểm. Thì lần ấy, ba tôi sai đi mua thuốc phiện. Nhà tôi chẳng thiếu gì người làm, song cưỡi ngựa giỏi và biết chỗ mua thuốc phiện tốt, chỉ có tôi thôi. ( ông vẫn tin cậy tài coi thường nguy hiểm và biết cách đối phó để vượt trở ngại, nghĩa là, tin rằng đi đến nơi về đến chốn của tôi ).
Tôi phải cưỡi ngựa lội qua con suối lũ kia, nước đỏ ngầu, sóng cuộn trông rất khiếp ! Khi tôi cho ngựa băng qua suối; ngựa bị đuối sức khi sắp tới gần bờ bên kia, nước chảy xiết như muốn cuốn nó xuống vực. Tôi nhẩy ra bơi, rồi tay nắm được ngọn cây lả bên bờ; chứ không, cũng rơi xuống vực , rồi bị trầm mình trong hầm thác.
Mẹ tôi chứng kiến cảnh chết hụt này.
Khi tôi đem thuốc phiện về nhà, câu đầu tiên mong rằng cha sẽ thăm hỏi tới sự nguy hiểm của tôi vừa trải qua, để hả lòng hả dạ đôi chút. Nhưng không phải thế :
" Con có lấy được thuốc cho ba không ?"
Tôi buồn, nên chỉ gật đầu. ba tôi mừng rỡ cầm thuốc đi vào phòng, không hỏi han thêm một lời nào. Mẹ tôi khóc, ôm lấy trôi, miệng cảm ơn Trời Phật độ trì . Lúc lớn lện rồi, tôi vẫn không quên kinh nghiệm này. Tôi lại lao đầu vào làm văn nghệ. bị nhiều sự bội phản, do những người văn nghệ nghiện thuốc phiện, nên thường nói chuyện với Hiệu, cũng như anh em bạn trẻ khác.
Rằng :
" Tất cả tội lỗi, gọi là có tội, tôi đều tha thứ hết; nhưng trừ một điều, đó là con nghiện ".
Những lúc lên cơn nghiện thuốc phiện, cho là bố của họ, mẹ họ ư, vợ con họ yêu quí ư , kể cả người yêu của họ nữa ... hoặc cái gì mà họ yêu nhất cũng là đồ bỏ, nếu không có thuốc phiện, khi lên cơn ghiền. Nghĩa nhân, tình phụ tử, thê thiếp, bạn bè .. có đáng giá một cắc đâu ; họ dám nói dối cả bố họ; thì, nếu bạn có bị họ đánh lừa, hoặc gì gì đi nữa, nên nhớ tới : ba tôi với câu chuyện kể trên đây. Câu đầu tiên, hỏi về thuốc, chứ không phải cái chết hụt của đứa con, con cầu tự duy nhất !
Ôi chao ! có ai lên thăm rừng Việt Bắc vào mùa thu, hoặc đã qua bên Lào để trông, ngắm đồi hoa trồng hoa Phù dung. Một rừng hoa muôn mầu sắc, cùng trên môt cành. Xanh, đỏ, tím, vàng nhạt, đậm xẫm, nhung, tím đủ mầu hết -- mà thi nhân chưa một ai đặt tên mầu cho nó cả
. Hoa đẹp lắm, nhưng sớm nở tươi tốt, chiều tàn rũ cành. Chỉ cây thuốc phiện mới có cành hoa láo mắt muôn mầu, đủ sắc hương kia, nhựa vê thành thuốc thủ, nấu thành thuốc
nước , đủ sức tàn phá kinh khủng không kém bom nguyên tử, bom khinh khí, bom hơi, hạt nhân ... gì gì đó.
Như là đối với cả một dân tộc lớn Trung Hoa vào thế kỷ XIX, thời kỳ chiến tranh nha phiến do ngoại nhân thổi vào lục địa, dân chúng mắc nghiền, yếu ớt thể xác, lung lay tinh thần , làm tôi mọi cho đế quốc Anh , chứ nói chi đến một người !
Thường ra, người nghiện có mặc cảm nhiều, nửa hạ mình khi không thuốc, nửa làm cao, khi có thuốc rồi, nghĩa là týp người vừa hạ mình vừa làm cao chỉ trong nháy mắt . Cứ như thế đó ! Chồng nghiện sẽ ráng tập cho vợ nghiện, dễ bề thông cảm. Nhưng tôi quí mến me tôi nhất, còn ở điểm này, mẹ tôi không nghiền thuốc phiện -- mặc dầu tôi biết rằng hoàn cảnh gia đình tôi lúc đó khá giả.
Những sáng ngủ muộn, bao giờ tôi cũng trùm chăn kín đầu, để làm gì ư, không muốn trông thấy những khuôn mặt thân thuộc rất đáng ghét; lẽ rằng, tôi thiếu nợ họ. Tôi là người không muốn thấy người khác khó chiu về mình, lại phải thốt bằng lời; mỗi khi anh chị Nụ ( chủ nhà và nấu cơm trọ cho tôi ở xóm Chùa ) hởi tiền là một lần tôi muốn độn thổ . Tôi đành khăn gói ra bến xe về Bà Rịa, nơi nhà bà cô. Khi ở trên đường , tôi nhất định nói với mình , phải rất bạo dạn hỏi vay tiền. Song lúc đến nhà , tôi định mở miệng hỏi vay tiền thì ấp úng, lưỡi tôi như muốn rụt vào, khó ăn khó nói làm sao ! . Ý định cuối cùng, bởi lẽ, cô tôi khuyên nên thực tế hơn, làm văn nghệ không thể nuôi sống nổi thân, tự làm khổ mình; trong khi cô chú` sung sướng.
Tất nhiên, khi trở về Saigon , chỉ còn cách trốn về nhà trọ cũ. Tôi bèn lang thang ra đường Lê Lợi , tạt vào quán Kim Sơn ngồi uống cà phê, trải rộng nỗi sầu vào nhịp đời rong ruổi. Lúc này , tôi thường gặp Quách Thoại . Nhà thơ mà tôi gọi là le poète maudit cũng khổ sở, đau đớn không kém tôi .
Sau khi chết sầu thảm tại Nhà thương lao Hồng Bàng ở Chơ Lớn, xác vô thừa nhận, làm thí vật cho sinh viên Y khoa mổ xẻ thí nghiệm bài thực hành. Rồi tôi cũng không chịu nổi bệnh đạo đức giả anh em ruột thịt của anh ta cùng bạn hữu văn nghệ nhóm Sáng tạo : " lúc sống chẳng cho ăn, chết là văn tê ruồi" -- tôi viết ngay môt cuốn sách nhận định về thân thế nhà thơ kia * Gia đình thoại ở Huế cho rằng tôi vu cáo, lẽ, anh ruột của Thoại là Lý Hoàng Phong ở Saigon - sao nỡ để cho tôi viết, đứa em ruột chết không ai chôn cất?. Họ định kiện tôi, sau chuyện này được bỏ qua. Một bài báo từ Huế gửi nhật báo Tự Do đăng,, báo này không đăng, một bạn tôi làm ở báo ấy cho biết vậy.
-----
* HÀN MẶC TỬ + QUÁCH THOẠI, NHÀ THƠ SIÊU THOÁT / THẾ PHONG - Đại Nam văn hiến xuất bản, in ro-nê-ô, giá 100 đ / cuốn , tái bản in ty-pô vào 1965.
-------
Còn tôi , sau ngày trốn nợ, cũng phải lấy can đảm về nhà trọ, cố mà chịu trận, nhìn nét mặt vặt ra đau khổ kia, như tự hành hạ lẫn nhau, chứ biết làm gì bây giờ ?!
Có đêm thật khuya, tôi mới về nhà trọ. Lúc vào buồng, tôi thấy buồn vô hạn và nhận thấy cô ruột nói có lý. Khi nghĩ đến chị Năm Hưởng, một người đàn bà miền Bắc vào Nam đã lâu làm lẽ, thuê buồng nhỏ bên cạnh, lên tiếng hỏi han tôi -- có oản, chè, xôi chị để dành cho tôi để ở trong trạn . Tôi được an ủi, cảm thấy đỡ đau đớn , trống trải tình thương, từ nơi chị Năm Hưởng truyền sang tôi như mảnh đất khô cằn thấm nước, sau lần hạn hán. Rồi sau này, tôi đã để lại giọt máu của tôi trong bào thai của chị.
Một đêm, chán chường quá, tôi đã lần mò sang giường chị. Lúc đầu, chị phản đối , từ chối và cho biết có một người nằm cạnh đang ngủ say. Tôi lấy cớ, sang bên chị, để chi kể cho nghe cuộc đời bão táp kia, sau tôi sẽ viết thành truyện. Chị Năm Hưởng dọa rằng sẽ mách anh ấy, vì tôi vẫn sang nhà chị chơi, gọi chồng chị bằng anh ngọt sớt. Anh làm ở xa, lâu lâu mới về nhà một đôi lần. Và anh ta xưng hô , gọi tôi chú em.
Lần này, tôi nhất định không chịu nghe chi,cứ lăn ra giường chị, nằm cạnh bên . Lúc đầu, chị từ chối, sau dần dần , chị cởi áo cánh, ty ôm lấy thằng em ngỗ nghịch.
Sáng hôm sau, khoảng 3, 4 giờ đêm, tôi trở về buồng tôi . Nằm thiêm thiếp trong chăn ru giấc ngủ muộn, đã nghe tiếng lao xao chị Năm Hưởng phân bua với chị Hai Nụ , chu nhà tôi cũng chủ nhà chị. Rằng đêm qua, có con mẹ đến ngủ nhờ, giận chồng sao đó, đến chơi rồi nằm lì ngủ lại. Chị Năm Hưởng kể, đã đuổi đi rồi, ai lại lười như quỉ ấy, chồng chê là đáng đời ! Riêng tôi, cười một mình trong chăn, nghĩ ra ẩn ý đàn bà rất lắm chiêu lạ thật khó
lường ! Như là bãi cát rất muốn được sóng biển ùa tràn lên mặt cát phẳng lì , mà lại rất muốn sóng biển rút nhanh xóa dấu tích .
Từ đêm sau, chị không chối từ nữa, đêm nào chưa qua, chị lại hẹn, phải qua đấy nhé., chị chờ:
" Nhớ cẩn thận nhé, cậu em đáng yêu của chị. "
Tôi lại phải ra Bà Rịa lần nữa để hy vọng vay tiền bà cô , vì chẳng còn chỗ nào nữa . Lần này, tôi ra VũngTầu trước, vì có một đọc giả mời ra ngoài ấy chơi, như thư viết, sau khi đọc tập truyện ngắn in chung *. Anh ta tự khai, quen họa sĩ trình bày bìa , nay bắt đầu viết văn và hiện nay làm chủ một iệm thịt bò trên đường Phan Thanh Giản . Tôi ra ngoài ấy chơi, đổi gió xem sao; khi tìm đến nhà Trần Tĩnh. anh ta đang mổ bò và bảo tôi về nhà anh ngồi đợi. Nhưng tới chiều tối, anh lại cho biết, phải về Saigon dự tiệc cưới-- và tôi tự nhiên ngủ lại một đêm , sáng mai anh trở về . Trần Tĩnh có chiếc máy chữ xách tay Triumph mới toanh, trông thấy mà thèm !
-------
* tuyển tập truyện ngắn, thơ LÀM LẠI CUỘC ĐỜI , bìa Tạ Tỵ, Tuấn Giang chủ trương, gồm truyện ngắn của tôi làm tựa sách, một hai bài thơ của Tuấn Giang- Hồ Bá Cao , xuất ban ở Sài Gòn năm 1956.
------
Hồi này tôi đang tập đánh máy chữ nên mải mê mổ cò. Chẳng biết đánh máy cái gì, ngoài tờ khai sinh có trong người ra. Thế là tôi gõ suốt buổi chiều hôm ấy. Khi mở ngăn kéo, tôi thấy một gói lớn dán kín, ngoài phong bì đề : " của nhà triệu phú Trần Hoài ". Tò mò, tôi mở ra xem, thì trong đó một xệp giấy 500 đ. Tôi đang cần tiền và đây là tiền, lại là tiền để dành của nhà triệu phú tương lai. Ấy thế là tôi nảy sinh cái kế : cứ lấy đại đi -- tôi nghĩ đến chị Hai Nụ - đã có lần chồng chị nghi ngờ có tình ý với tôi , chị không chịu thúc giục đò tôi trả tiền cơm, tiền nhà.
Bật nhớ tời tôi còn chịu nợ 2000 đ , tiến ghi sổ cà phê ở quán Văn Sửu trên đường Nguyễn Văn Sâm, mà hôm nọ ông chủ đã đòi khéo - khi thấy một anh Tây thực khách, từng nạn nhân quán Văn Sửu - vì cho ghi sổ ăn, uống thiếu. Chính ông Tây thực khách kia bị chủ quán kiện, anh ta bị bắt , giam tại Nha Cảnh Sát Đô Thành .
Tôi quyết định về Saigon ngay với số tiền kia, rồi ra sao hãy hay !
Khi trả nợ xong rồi, tôi bắt đầu lo sợ. Những 10 ngàn đồng của triệu phú Trần Hoài chứ đâu có ít ? Tôi bèn cắt tóc thật ngắn, điều này tự nhận ra ngay sự khôi hài đáng cười nhất, vì cho rằng, Trần Tĩnh sẽ không thể nhận nổi diện mạo tôi, kể cả cơ quan công lực có truy nã đi nữa. Bởi tôi tin thế nào Trần Tĩnh cũng sẽ trình báo -- ít lâu sau ở tòa soạn tuần báo Bông Lúa , nơi tôi gửi bài , họ trả tiền theo bài đăng, nhận được lá thư Trần Tĩnh. Nội dung thư, nửa đe dọa nửa thương tình, anh bảo đó là món tiền bạn anh gửi. Tôi đã mua máy chữ mới rồi chứ gì, anh khẳng định vậy, vì anh có lý khi anh thấy tôi nhìn cách say mê chiếc máy chữ Triumph của anh. Trần Tĩnh khuyên tôi nên bán chiếc máy chữ ấy đi rồi gửi tiền trả anh, đồng thời viết tờ giấy vay nợ. Tôi cười thầm , viết thư, nhận có mượn của anh một số tiền, nhưng không nói bao giờ trả, hoặc đề cập chuyện có mua máy chữ mới hay không? Làm sao anh có thể nghi ngờ, vì đang viết bộ Lược sử văn nghệ Việtnam 1900-1956 mà tôi nợ nần nhiều đến thế. Giọng văn trong thư lại pha lối viết văn trinh thám Kỳ Phát của Phạm Cao Củng -- nào anh sẽ tìm ra thủ phạm ngay, qua vết tay tôi lưu tích. Tôi rất lo mà cũng phải thêm một lần bật cười . Tôi trốn tránh anh, cho đến một buổi chiều vài năm sau, tôi gặp lại anh, dáng người yếu ốm, mặt tái xanh, đi đứng thất thểu từ trong nhà hàng Thanh Thế bước ra. .Anh cho biết, hiện đang nằm điều trị tại bệnh viện Saint Paul. Hỏi món nợ năm xưa, tôi chìa ra tờ hợp đồng ký bán tác phẩm cho nhà xuất bản Phạm Văn Tươi về cuốn Nhà văn tiến chiến 1930- 1945 ( tập 1 trong bộ Lược sử văn nghệ Việtnam ) . Hợp đồng ký kết, tôi được hưởng 10 % trên số lượng sách + giá trên bìa. Tôi bảo anh, sách chưa được phát hành, khi nào nhận tiền, tôi sẽ tim anh. Và tôi hứa đầu tuần sau, sẽ gặp anh ở bệnh viên Saint Paul - ghi dãy, số phòng, giường vào sổ tay cẩn thận. Nhưng rồi không có tiền, nên tôi đành thất hẹn. Và truyện in sách không xuôio chèo, mát mái - tôi càng tức cười hơn khi nghe Phạm Văn Tươi , sau khi đã đọc xong toàn bộ phê bình, ông tươi klhông thấy tôi đề cập một nhà văn dịch thuật in t rong loại sách
" Học Làm Người " của Phạm Cao Tùng là sao ? * . Và Phạm văn Tươi hoàn trả tôi bản thảo bộ sách phê bình, và hủy giao kèo in Nhà văn tiền chiến 1930- 1945, đồng thời tặng tôi bộ sách dịch ra tiếng việt của Philippe Giradet - nếu tôi viết bổ sung nhà văn Phạm Cao Tùng, thì sẽ gặp nhau bàn chuyện in ấn sau.
-------
* Phạm Cao Tùng là biệt hiệu chủ nhà xuất bản Phạm văn Tươi .
-----
Trở lại câu chuyện nhà triệu phú Trần Hoài * , nay cũng là một tác giả cuốn tiểu thuyết
Ngồi lại bên cầu, một vài cuốn sách dịch, hiện thư ký tòa soạn tạp chí Văn .
Có đôi lần gặp anh rất tình cờ ở một tòa soạn nọ, anh lờ tịt như không quen biết nhau, khiến Lê Ngộ Châu giới thiệu :
" .. đây là anh Thế Phong và đây là anh Trần Phong Giao ".
-----
* Trần Tĩnh, tên thật Trần Phong Giao .
----
Cả 2 chúng tôi xiết tay nhau, không một ai nói với nhau một lời nào. Và hẳn là anh không thể quên tôi, dầu tôi cắt tóc cua ở bây giờ vì đó là tự ý muốn vậy. Lê Ngộ Châu nhìn cảnh 2 người lơi là với nhau, anh bạn kia nhấn mạnh :
" Anh Trần Phong Giao là nhà văn có tiếng, bây giờ là chủ bút tạp chí" Văn " đấy anh Thế Phong ạ ! "
Nhưng hẳn rằng , anh bạn kia không thể nói , không quen biết tôi, thực ra giận hờn tôi chưa trả anh món nợ 10 ngàn đồng đấy thôi!
Lại nhắc chuyện 10 ngàn đồng của nhà triệu phú Trần Hoài ở Vũng Tàu. Tôi dùng nó để trả nợ sòng phẳng và hào hoa biết mấy, vì toàn giấy 500 đ mới tinh, chủ nhà thấy vậy, lại tiếp tục nấu ăn, cho tôi ở chịu liền thêm 6 tháng nữa. Tôi lại yên tâm ở nhà tiếp tục hoàn tất bộ sách phê bình văn học chết tiệt kia !
Sáu tháng trôi qua mau, họ lại phải giục nợ, lần này tôi đành bó tay, ra đi trốn nợ, chỉ đem bản thảo đi, bằng cách chuyển nhiều lần; còn chăn, màn, va li, quần áo để lại.
Trước đó, một cô vợ lính làm bé, bị bỏ rơi, cũng là người thuê nhà anh chị Hai Nụ., đó là Cô Năm Châu Đốc. Cô thường kích dục tình ái nơi tôi, song tôi đành từ chối. Vì tôi hối hận trải qua mối tình vụng trộm vói chị Năm Hưởng, có thai, dọn nhà đi trước tôi. Sau này, tôi đi tìm chị đôi lần đều không gặp, không tin tức gì về chị. Bào thai mang giọt máu của tôi, thì tôi chỉ có thể mua nổi cho mẹ con chị một chai Hépatrol duy nhất, bằng số tiến mà anh bạn đưa cho, bảo mua thuốc lá Philip mà hút .
Những lần có tiền muốn đến thăm chi Năm Hưởng, ít ra để nhìn thấy bóng dáng đứa con, mà đành thất bạ, chẳng biết chị ở đâu hoặc , lưu lạc tới phương nào ?!.
Tôi buồn, như chính mình bị cụt tay, hoặc chân. bây giờ, đứa con kia, khi đọc tới dòng chữ này, bố nhắn : " con nên đến gặp bố nhé !". []
thế phong
( Nhà văn, tác phẩm cuộc đời / thế phong -
Nxb Đại Ngã tái bản, Saigon 1970 - tr. 29 - 49 ).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét