Thứ Hai, 19 tháng 12, 2011

Tạp chí Bách Khoa & BÁC LÊ NGỘ CHÂU ' ĐỊNH GIÁ VĂN CHƯƠNG GIỎI" / Trần Thị Bông Giấy viết.

                TẠP CHÍ BÁCH KHOA & BÁC LÊ NGỘ CHÂU, CON NGƯỜI
                                 ĐỊNH GIÁ VĂN CHƯƠNG TÀI GIỎI.
                                     bài của  TRẦN THỊ BÔNG GIẤY

(  Bài 1) 

Mùa hè 2004, trong một buổi  chuyện trò tại café Tùng Dalat , tôi được Thế Phong kể cho nghe rất rõ về bác Lê Ngộ  Châu và tờ tạp chí Bách Khoa.
     " Trước thời kỳ 1954 ( lời Thế Phong ) khi ông Thượng Sỹ còn được phong là' ngự sử văn đàn' thì Lê Ngộ Châu chưa  lao vào trường văn trận bút, mà chỉ là một người em tinh thần của ông Nguyễn Tế Mỹ ( thuộc nhóm Hàn Thuyên ) ; hơn nữa, hiệu trửong một trường tư thục ở Hà Nội.   Vào Nam   năm 1954, Lê Ngộ Châu gia nhập Hội  Văn Hóa Bình Dân ( trụ sở đặt tại số 7 Phan Kế Bính ).   Sau đó được đề cử phụ trách tòa soạn Bách Khoa, cơ quan ngôn luận của hội này, xuất hiện từ 1957 ( trụ sở đặt  trong môt phòng của chung cư góc Bà Huyện Thanh Quan & Phan Đình Phùng) do Huỳnh Văn Lang làm giám đốc chính trị kiêm chủ  nhiệm.   Tờ báo ban đầu có bài của Phan Lạc Tuyên, Phạm Ngọc Thảo; sau dần dà có Vũ Hạnh, Võ Phiến, Nguiễn-Ngu- Í, Bùi Hữu Sủng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Trung, Phạm Công Thiện và nhiều  người nữa.v.v.."
Tiếng cười Thế Phong vang cao:
"Là chủ bút một tạp chí lẫy lừng nhưng bút lực lại nhẹ tênh, bởi lẽ chủ bút không có bài nào ký tên Lê Ngộ Châu in trên báo; tuy nhiên anh ấy lại là một kẻ định gía văn chương rất chính xác."
( Thế Phong dùng chữ" Comimissaire-priseur" ).
Tôi lập lại:
  "Bien commissaire-priseur?"
 Anh gật đầu:
"Phải, rất tốt! Lê Ngô Châu biết được cái hay của nhiều cây bút mà dung nạp họ từ thuở họ chưa là gì cả.   Chẳng hạn như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng; hai nhà văn nữ này đều nhờ bà mụ  Bách Khoa đỡ đẻ đứa con tinh thần đầu tiên của mình.   Nhưng không chỉ hai cây viết này thôi mà còn rất nhiều nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Miền Nam cũng bắt đầu sáng tác đầu tay trên tờ tạp chí ấy : Lê Tất Điều, Thế Uyên... đều có một số truyện thời kỳ thứ nhất đăng ở Bách Khoa.   Luôn cả linh mục Nguyễn Ngọc Lan với bài viết đầu tiên nữa.   Bây giờ ông Lan vẫn còn nhớ khi ấy được Bách Khoa trả nhuận bút 500  đồng VN.   Nguyễn Văn Trung cũng về đầu quân Bách Khoa sau khi bị mất chức khoa trưởng ở Viện Đại học Huế."
Tôi bật kêu:
" Như vậy Bông Giấy' xui 'quá vì không được sinh ra cùng  thời với một người co tài định giá văn chương như bác Lê Ngộ Châu."
Thế Phong gạt:
" Rất đúng!.BGiấy biết, vào tháng 10/1997, khi Phan Diên gửi về cho tôi bài Phạm Duy, Ông Là Ai? cắt ra từ báo Sài gòn  Nhỏ của Hoàng Dược Thảo ở Orange County, tôi  copy chuyển lại một bản cho Lê Ngộ Châu.   Đọc xong, anh ấy khám phá ra rằng ' BGiấy  là một nhà văn đáng gờm, viết rất độc' và gọi điện thoại đến tôi :' Thế Phong ơi, cách nào xin được một tấm ảnh của BGiấy nhỉ?'.   Tôi bèn liên lạc ngay với dịch giả Những  bức thư tình hay nhất thế giới ở Houston.   Thế là nhờ Nguyễn Đắc Sơn mà chúng tôi biết được BGiấy là một phụ nữ chứ không phải nam nhân như lời đồn đãi của nhiều người.'
Tôi cười:
" Thảo nào khi qua Houston dạo tháng 4/1999 làm  cuộc Nói Chuyện Với Độc Giả   mà cứ bị anh Đắc Sơn chụp hinh loạn lên như đang chụp cho một minh tinh màn bạc.   Chụp xong, đem đến đưa BGiấy lựa hai tấm nào thích nhất , ký đề tặng  Thế Phong và  bác Lê Ngộ Châu."
Tôi đưa ra nhận định:
" Ở trên, chữ   bút lực nhẹ tênh anh dùng cho bác Châu, BNG sợ không được ổn.   Ở San Jose, BG có giao thiệp với một anh đã lớn tuổi, thời trước là giám đốc nhà xuất bản Trí Đăng ở Sài gòn, cũng là bạn thân của bác Châu.   Có lần được anh ấy kể cho nghe về bác Châu như sau:
      " Hai cái tài lớn nhất của anh Lê Ngộ Châu là' phát hiện tài năng và ' hướng đề tài hay cách viết cho người viết'.   Nếu đọc thấy bài thơ văn nào có giá trị là nhận biết ngay, đồng thời tìm cách' lăng xê' chúng.   Ví dụ có lần đọc thấy bài thơ của ai đó hay quá, anh đi với tôi tới nhà Phạm Duy, đưa Phạm Duy phổ nhạc.   Phạm Duy cũng cũng là anh có tài, ngồi ngoáy một lúc thành ra bài' Còn Chút Gì Để Nhớ'.   Sau này mới biết là thơ của Vũ Hữu Định.
Trong tờ' Bách Khoa' , anh Châu không có bài nào in ký tên mình, nhưng hầu  như tất cả các bài gửi đến, đều do anh sửa chữa lại giùm hết.   Anh cũng không bao giờ nói ra điều đó với ai, nhưng tờ
' Bách khoa' đưa đến nhà in chúng tôi, nhìn bản thảo, biết như thế.   Các bài của Nguyễn Văn Trung,  Tạ Ký v.v.. đều được anh sửa.   Ngay đến Bình Nguyên Lộc là một tay sừng sỏ, khó tính, mà gửi bài cho' Bách Khoa' , bị anh Châu edite lại, chẳng dám nói câu nào.
Anh Châu làm công việc sửa văn hay hướng dẫn cách viết cho người khác bằng cái lòng yêu chữ nghĩa chân thật nên chằng ai buồn anh cả.   Trong tờ 'Bách Khoa'  có điểm đặc biệt là anh em rất thương nhau, coi nhau như trong một nhà.   Tất cả đều do anh Châu mà ra.   Điều này khác hẳn với tờ ' Văn' của Nguyễn Đình Vượng.   Với tờ' Văn' , chủ ra chủ, người làm công ra người làm công, rõ ràng đâu vào đó.   Chứ còn tờ ' Bách  Khoa' thì không.   Dù cho có người thuộc phe này phái khác, như Vũ Hạnh với Võ Phiến, nhưng khi đến tòa soạn' Bách Khoa' là dẹp bỏ hết riêng tư.
Ngoài ra, anh Châu cũng  là người rất có lòng.  Anh nhớ ngày sinh, ngày giỗ của từng gia đình anh em.   Anh được tất cả anh em  thương là nhờ đó.    Nếu không phải là anh Châu nắm chủ nhiệm thì tờ ' Bách Khoa'  đã rã lâu rồi, không như ông Huỳnh Văn Lang viết cuốn sách gì đó tôi không nhớ tên, rêu rao những điều sai lạc hết  sức về Lê Ngộ Châu trên tờ ' Bách Khoa' , rồi được bà Nguyễn Tà Cúc ở Santa Ana khai thác dưới sự điều động của Viên Linh, mục đích' hạ' Võ Phiến để' dành' chỗ đứng với ông này."
Thế Phong bật kêu:
" Hoàn tòan đúng! "
Anh kể tiếp:
  " Ở nền đệ I Cộng Hòa, tạp chí ' Bách Khoa' tồn tại một cách hiển hách là nhờ có sự đỡ đầu của ông Huỳnh Văn Lang, ( giám đốc chinh trị được Tổng thống Diệm tin cậy cử làm giám đốc Viện Hối đoái, sau lại được ra một tờ bán nguyệt san 'Mai' ,do chính ông làm chủ nhiệm), Đoàn Thêm  ( phó đổng lý Phủ Tổng thống ), Phan Văn Tạo ( Tổng giám đốc Thông tin, tác giả tập truyện ngắn' Cái bong bóng lợn' ).   Thêm nữa, tờ' Bách Khoa' còn được Nguiễn-Ngu-Í mở cuộc phỏng vấn các nhà văn, thơ, nhạc, họa... đăng trên báo môt thời gian dài.   Đó là những tư liệu tham khảo văn học rất có giá trị cho đời sau về môt giai đạon văn chương của Miền Nam.
 " Khỏang đâu thập niên 60, tòa soạn được dời về 160 Phan Đình Phùng.   Sau cuộc đảo chính chế độ Diệm ngay 1/1/1963, nền đệ II Cộng hòa thành lập.   Khi ấy vai trò của  Lê Ngộ Châu trên tờ Bách Khoa rất nặng.   Anh ấy phải chu toàn đường lối, trị sư lẫn cả tiền bạc để vẫn xuất bản được tạp chí Bách Khoa một cách đều đặn.   Bề ngoài nhìn vào thì là một nhà ngoại giao khéo léo, quan niệm nhân sinh xử thế tròn trịa y như hòn bi của chiếc bút Bic; nhưng chính thời điểm này mà anh ấy mới trổ hết sự khôn ngoan của mình ra.   Một phần do  bởi phải hòa giải để chứng minh rằng tờ Bách Khoa không phải là  công cụ của chết độ Diệm, Lê Ngộ Châu xin được tiếp tục xuất bản theo cách kiểm duyệt từng số ( có một thời gian Bách Khoa không được coi là báo chí mà chỉ là giai phẩm, không được đánh số thứ tự như báo có  giấy phép chính thức ).   Lúc nảy phía quân đội được cử sang nắm phần kiểm duyệt báo chí, mà người có quyền hành lớn nhất lức đó là thiếu tá Nguyễn Quang Tuyến
 (  nhà văn Văn Quang ) , dưới tay có cả  đại úy Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến."
" Điểm tròn trịa' tôi nói ở trên được chứng minh qua sự  việc nhờ vào một tay Lê Ngộ Châu mà ngay từ thời đệ I Cộng Hòa, trên tờ Bách Khoa đã thấy dung nạp được các nhà văn hai cánh Quốc và Cộng.'
Tôi chưa kịp hỏi thì anh đã nói:
" Quốc là Võ Phiến khi ấy bỏ CS về với Quốc gia được dương oai múa bút trên tờ Bách Khoa; và Cộng là cây bút nội gián ký tên' cô Phương Thảo' ( một bút danh khác của Vũ Hạnh) chuyên viết bài điểm sách, công kích những tác phẩm nào lên án CS được đăng trên những tạp chí, tuần báo có Vũ Hạnh cộng tác."
Cười khà khà, Thế Phong tiếp:
" Trong tòa soạn Bách Khoa còn có một' hộp thư đen' chuyên nhận và trao những thư mật của các chuyện tình vụng trộm không muốn gửi  đến nhà, che mắt vợ cái con cột.   Hai tay sừng sỏ nhất trong hộp thư đen này là Phạm Duy và Võ Phiến.   Võ Phiến vì có công' lăng-xê' trên tờ Bách Khoa  tác phẩm đầu tay' Những Sợi Sắc Không'  của một nhà văn nữ, nên đã được nhà văn này ' trả công  thầy' bằng cách trốn chồng lên Dalat cùng với thầy hưởng' đêm xuân trăng sáng'.
Tôi ngạc nhiên:
' Đêm xuân trăng sáng' ? Hình như đó là một cái tựa một tác phẩm của Võ Phiến?"
Thế Phong gật:
" Đúng.  Đây chỉ là một lối chơi chữ của tôi, nhưng thật là tên một tác phẩm loạn luân của Võ Phiến, trong đó có một nhân vật loạn luân rất được tác giả ca ngợi."
Tôi hỏi:
" Thân thế ông ta ra sao?"
Thế Phong đáp:
" Võ Phiến  tên thật là Đoàn Thế Nhơn, sinh năm 1925 ở Bình Định.   Học ở Quy Nhơn, sau ra trường Thuận Hóa ( Huế) .   tại đây, được Đào Duy Anh chú ý, khuyến khích, rồi nhận làm con nuôi.   Sau 1945 ra Hà Nội học.   Cuối năm 1946 trở về Bình Định tham gia kháng chiến ở Liên Khu V.   Sau hiệp định Genève ( 20/ 7/ 1954) , bỏ Liên Khu V, ra hồi chánh ở Huế, được Võ Thu Tịnh, giám đốc Nha Thông tin Trung phần kiêm chủ nhiệm tạp chí' Mùa lúa mới' , thu nạp, đăng ngay các truyện ngắn chống Cộng của Võ Phiến trên báo mình ( đồng thời với các bài thơ của một thi sĩ hồi chánh khác Đỗ Tấn (tên thật Đỗ Tấn Xuân).   Vào Sài gòn, Võ  Phiến làm công chức tại Bộ Thông tin ( nhân viên kiểm duyệt sách), lại được dung nạp vào Bách Khoa, đăng tiếp một số truyện ngắn chống Cộng nữa rồi in vào tập' Thư Nhà'."
Bật cười to, anh tiếp: " Kể cho Bông Giấy nghe một giai thoại văn chương thú vị".
" Bùi Giáng đọc được môt truyện ngắn nào đó trong tập' Thư Nhà'  của Võ Phiến thấy có động chạm tới mình, chàng thi sĩ' chẳng có ai  cao hơn ta kể cả cái nón trên đầu'  này bèn cầm cuốn truyện đến tòa soạn Bách Khoa chửi bới rồi giơ tay tát vào mặt tác giả.".

Bằng giọng điệu khinh  bỉ rõ rệt, Thế Phong nói; " Trong cuốn HIỆN TINH VĂN HỌC MIỀN NAM; 1957-1961" ( in ở Sài gòn năm 1962) , về Võ Phiến, tôi đã viết:
".. Võ Phiến  qua' Người  Tù'', Chữ Tình' , những truyện ngắn đầu tay về kinh nghiệm sống rất đậm ( mùi)  kháng chiến, nói lên được một khía cạnh nhân bản trong phi nhân bản mác xít.   Về sau này thấy ăn khách và ăn tiền, khai thác quá tay, nên trở thành nhàm, lố bịch.   Vói một bút pháp tỉ mỉ, từa tựa kiểu' Tự Lực văn đoàn' , nhưng có thời- đoạn- tính hơn.  Ông là một nhà văn' treo giải thưởng được' trong loại chuyện chống Mác xít có nghệ thuật hon những người khác,"

Thế Phong thêm:  lý do " ăn tiền' ở đây là tác giả đã bán cho  Bộ Thông tin hồi ấy một sô sách chống Cộng nên có được một số tiền lớn."
Tôi góp chuyện:
" Đó cũng là  trường hợp của Nguyễn Ngọc Ngạn ở hải ngoại bây giờ đang  mắc phải, với những tác phẩm chống Cộng quá đà, đâm trở thành  rẻ tiền lố bịch, nhìn đâu cũng chỉ thấy CS, thậm chí' soi gương cũng thấy Cộng đang đứng trước mặt' như lối nói của Trần Nghi Hoàng về Nguyễn Hữu Nghĩa, chủ nhiệm báo ' Làng Văn' ở Canada, một' đồng chí' của Nguyễn Ngọc Ngạn !".
Thế Phong cười ha hả:
' Rất đúng !  Nhưng Võ Phiến may hơn, đắc thời hơn anh kia.   Bởi từng là con nuôi của từ điển gia Đào Duy Anh nên trước 1975, được tạp chí Bách Khoa coi như cây viết trụ cột, tòan quyền múa gậy văn chương; sau 1975, sang Huê Kỳ cũng được NXB Văn Nghệ của ông Võ Thắng Tiết và tạp chí' Văn học' của Nguyễn Mộng Giác, cùng với'  một bọn văn nghệ quần cộc cởi trần'  công kênh thành ' lão phê bình gia sáng giá của văn chương hải ngoại', được Mỹ cấp' phân '  ( fund)  tài trợ cho, để ngồi viết bộ 6 tập ' Văn học Miền Nam '  một cách láo lếu, què cụt.   Chưa hết, tên tuổi anh chàng' buồn ngủ gặp chiếu manh' này lại cũng được đưa vào một luận án  đại học Pháp ."
Tôi thắc mắc:
" Một luận án đại học?
Thế Phong gật:
" Đúng.   Trong một bài báo  của Mai Chi ( Sorbonne Nouvelle, ngày 9/10/ 2001 ), bà Trương Thị Liễu đã báo cáo về sự thành công luận án Tiến sĩ văn học đối chiếu với đề tài :  VÕ PHIẾN, VĂN HỌC DÂN TỘC & VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY , do các ông DH. Pageux ( Đại học Paris III)  và Đặng Tiến ( Đại Học Paris VII) ....điều khiến.   Ngoài ra Ban giám khảo còn có các giáo sư J. Bessière ( Đại học Paris VIII) và J. Dugast ( Đại Học  Rennes II )  làm phụ khảo.   Luận án gồm 400 trang, phần' Phụ lục' gồm 200 trang để trình bầy thư mục, chú giải và dịch 4 truyện ngắn.   Phần lý luận giới thiệu thân thế và toàn bộ tác phẩm Võ Phiến, nhấn mạnh vào những  truyện huyền ảo ( fanstatique) .   Phần 2  : Phân tích ảnh hưởng văn chương phương Tây, từ Alphonse Daudet, Somersest Maugham đến D. Buzzary, Michel Butor.   Đặc biệt ở trang 100 trang cuối, bà Trương Thị Liễu đề xuất về vấn đề giao thoa với tác phẩm của Marcel Proust.   Chủ đề, kỹ thuật kể chuyện, phương pháp dự tưởng như phản ảnh huyền thoại Orphée.   Các giám khảo thừa nhận công sức lao động và công lao khai phá, mở đường cho văn học đối chiếu vào  một mảnh đất hoang như văn học VN hiện đại.   Ngoài ra  tác giả luận án còn khôi phục một thời kỳ văn học dưới một chế độ chính phủ phôi pha tại miền Nam từ 1954 đến 1975.   Công trình của bà Liễu gian nan : từ việc truy lùng tài liệu đến xử lý; đọc Võ Phiến và Marcel Proust không phải  là vấn đề đơn giản, sau đó lập thuyết và lập ngôn ".* (  * dẫn theo Nguyễn văn Trung, trong bài:" Hướng về Miền Nam" - Xin Mời, Cầm Đọc Tolle Lege" do chính tác giả gửi tới Thế Phong vào 2003).
Đang nghiêm trang kể lể, Thế Phong bỗng cười rũ ra, điệu rất thú vị:
           " Vậy mà đến năm 2003, một buổi tối, tôi bất ngờ nhận được điện thoại của nữ sĩ Thụy Khuê gọi từ Paris, xưng danh, và xin tôi địa chỉ e-mail, theo lời yêu cầu của Nguyễn Văn Trung ở  Canada.   Khi ấy tôi mới sực nhớ ra là có đọc tên các giáo sư, học giả Miển Nam được phong tặng' triết gia' , ngoài Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Kim Định, Lý Chánh Trung, còn có giáo sư Nguyễn Văn Trung- mỗi người được ghi vài giòng trong cuốn Dictionnaire des philosophes ( NXb PUF., Paris 1984) .   Tự hỏi, không biết anh chàng này ( NVTrung)  muốn gì ở mình đây?   Ít lâu sau, nhận được vài hàng thư  điện tử của chính đương sự, kèm theo một bài tự đề HƯỚNG VỀ MIỀN NAM ( Xin Mời: Cầm Đọc, Tolle Lege- 23 trang khổ A4)- cũng chính giáo sư Trung viết - nội dung bàn về văn chương miền Nam , với lời phê bình bộ
( 6 tập) ' Văn Học Miền Nam' của Võ Phiến.   Trong bài, Nguyễn Văn Trung có trích  đoạn mà tôi trình bầy về Võ Phiến, từ cuốn HIỆN TÌNH VĂN NGHỆ MIỀN NAM : 1957- 1961- tôi vừa nói đến ở trên."

Tôi hỏi:
-Anh quen Nguyễn Văn Trung như thế nào?   Có thân không ? Chứ còn ở hải ngoại, ông này mang tiếng dữ lắm.  Đã có không biết bao nhiêu người chửi và khinh bỉ ổng, nào là tay hoạt đầu chữ nghĩa, nào là tay ăn cháo đá bát, tay phản bạn, tiến sĩ ma, cái tâm chĩa ba chĩa bốn (  CS & Quốc gia),  đủ thứ và đủ thứ.   Thậm chí có nhiều vị trong văn giới, nhất là anh chàng chủ nhiệm diễn đàn' Giao Điểm" cứ xúi BG viết bài' đập' Nguyễn văn Trung như đã từng đập Phạm Duy".
 Cái cười Thế  Phong pha nhiều tính trẻ:
Thân gì mà thân với những kẻ như thế. (......) " -...  tôi không  có lời  phê  Nguyễn Văn Trung nguyên văn như vậy . Có thể,  giáo sư Trung đã đọc, khi sách của BG  xuất bản 2005-   anh giận nên không còn   liên lạc  thư từ .    Chẳng lẽ, năm 2003,  từng  chở  anh  trên xe gắn máy ' cà tàng", lượn khắp   Saigon, cùng nhau  cà- pháo- cà- phê ,  ăn trưa tại nhà , tôi đã xí xóa  chuyện  cũ" - nay bỗng nhiên ,  quay đầu trở ngược "đâm sau lưng bạn hữu, vậy  coi  sao  được ! ?'  -   Xin lỗi  bạn đọc, và tác giả Trần Thị  Bông  Giấy! ".)
Tôi  ( BG) tò mò:
" Trong bào viết gửi anh, ông ta viết gì vậy?
Thế Phong đáp: " Nguyễn văn Trung viết:
         " Thật ra những lạm dụng danh nghĩa về văn sử trầm trọng cũng ít xảy ra vì dư luận báo chí không buông tha.   Trong tình hình như thế khó tưởng tượng nổi một vụ đề cao Võ Phiến như thấy ở hải ngoại, đã có thể xảy ra trong thời kỳ VNCH.   Tôi không biết ở nơi nào, thời đó các đại học công tư như Vạn Hạnh, nơi quy tụ nhiều học giả, có ý định mời Võ Phiến nói một buổi về kinh nghiệm viết văn  của mình.   Tuy nhiên một tập giới thiệu văn nghệ miền Nam của Thế Phong 1957-1961, in ronéo 50 bản , cũng nhắc đến Võ Phiến;' ( là đoạn tôi đã kể BG nghe ở trên )' (...) "
Thế Phong tiếp:
" Nói về luận án  tiến sĩ của bà Trương thị Liễu, ông Trung cũng viết:
           "Tôi không có ý kiến gì về luận án  vì chưa đọc, chỉ ghi nhận ý kiến của Thụy Khuê, chắc đã đọc kỹ Võ Phiến và Marcel Proust, một tác giả khó đọc, khó hiểu đối với người không am tường văn học Pháp.   Thụy Khê nói :"  Khi nghiên cứu văn ban của Võ Phiến thấy không có gì giống Proust cả.   Ngoài ra Thụy Khuê cũng phê bình:' Cách phê bình của Võ Phiến trong 6 tập ' Văn Học Miền Nam' chẳng những không giúp ích gì cho sự tìm hiểu về lịch sử văn học Miền Nam ( 1955-75) thì có thể hiểu sai:  trước hết chính những tác giả mà Võ Phiến giới thiệu trong bộ sách đó mà  còn không hay  biết gì về những người làm biên khảo ( phê bình văn học sử ) và dịch thuật, là hai bộ môn mật thiết liên hệ đến văn học đối chiếu, đã bị Võ Phiến gạt đi trong bộ sách của ông ta.   Ví dụ cụ thể, bà Liễu dịch Đông Kinh Nghĩa Thục là' Instituit du Tonkin' , bọn tây không hiểu là gì , kể cả tây giám khảo.   Tôi cũng lo ngại về khả năng am hiểu của bà về lịch sử văn học VN, mà dựa vào Nguyễn Khắc Viện, soạn giả bộ' Nghìn Năm Lịch Sử Văn Học'  nói ở trên, mục' Glossaire', tr.400.   Tại sao bà không tìm tài liệu của những người Miền Nam như Nguyễn Hiến Lê mà Đặng Tiến giới thiệu, người hướng dẫn luận án đã lưu ý (...)".
Tôi đưa ý kiến:
 "Nếu chỉ dựa trên những dẫn chứng sai lạc hay thiếu sót để hòan thành luận án thì như vậy , thì cái luận án tiến sĩ văn chương của bà Trương Thị Liễu cũng là vô giá trị ?"
Thế Phong bật mạnh gọn lỏn:
"Đúng!"
Rồi, vẫn giọng cười khà khà, Thế Phong tiếp:
          " Và vẫn như Nguyễn Văn Trung nói, BGiấy cũng đã biết, trong bộ 6 tập' Văn Học Miền Nam' , Võ Phiến gạt bỏ hết môn biên khảo, dịch thuật, báo chí, chỉ giới thiệu sáng tác ( văn, thơ, kịch) hầu hết  là những người sáng tác đến năm 1963; bỏ quên luôn sáng tác của giới trẻ Miền Nam viết từ sau 1963.
Như vậy' Văn Học Miền Nam' ( VNCH)  bỗng trở nên què cụt, nghèo nàn, không hợp lý.   Điển hình là vào năm 1963, tác phẩm' Hồi Chuông Tắt Lửa' của  Thế Nguyên  ( NXB Đại Nam Văn hiến xuất bản, in ronéo, 1963) chào đời, gây một dư luận văn chương rầm rộ, được đánh giá là  một truyện hay.   Uyên Thao viết bài điểm sách trên  đài Saigon, Nguyễn văn Trung viết thư cho tôi, khen' Hồi Chuông Tắt Lửa' , và mong được gặp mặt tác giả.   Sau đó, Thế Nguyên trở thành chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí' Trình Bầy', chủ bút' Đất Nước'  ( Nguyễn văn Trung chủ nhiệm.)
Năm 1964, cuốn' Hồi  Chuông Tắt Lửa'  tái bản ( NXb Nam Sơn, Saigon 1964), rồi được đăng trọn vẹn trên tạp chí' Văn" của Nguyễn Đình Vượng.   vậy mà, một tên tuổi và một  tác phẩm thành công như thế, lại chẳng được Võ Phiến đưa vào bộ' Văn Học Miền Nam'  của anh ta .."
Tôi bổ túc:
" Không phải chỉ Thế Nguyên với Hồi Chuông Tắt Lửa đâu anh,  mà còn những cây viết thu hút được một số lớn độc giả bình dân hồi đó, như Bà Tùng Long, Dương Hà  nữa - không thấy ghi ra trong bộ sách của Võ Phiến.   Nếu đã làm công việc tổng kết văn học thì không nên có cái nhìn phe phái.   Võ Phiến có quyền không ưa văn chương của Bà Tùng Long, của Dương Hà, nhưng không có quyền đem cái nhìn cá nhân để phủ nhận sự hiện hữu và tầm thu hút của các tên tuổi kia đối với độc giả giới bình dân."
 Và tôi cười giễu cợt:
" Đó  là cung cách làm văn chương của đa số dân văn nghệ hải ngoại anh Thế Phong ơi.   Ông Võ Phiến sau 1975 cũng thuộc vào cái giòng sinh hoạt đó.   Anh biết, ở Mỹ, thập niên 1980, bỗng dưng thấy nẩy sinh rất rầm rộ những cái dịch thuộc về chữ nghĩa.   Ví dụ, như dịch viết' Hồi Ký', dịch viết' Phê Bình Văn Học', dịch in sách' Tổng kết Văn Học', dịch' Tổng kết các tác giả VN'  ( trong và ngoài nước ).v.v và v.v.. Biết bao quái thai chữ nghĩa đã chào đời trong cộng đồng người Việt ở Mỹ theo trào lưu' văn chương dịch... vật'  đó.   Một anh' i-tờ -rít' như anh Khánh  Trường mà làm chủ bút một tờ báo văn học, rồi lại còn viết tổng kết văn học hải ngoại thì mình phải công nhận rằng thua  trong nước  là cái cẳng, không có gì đáng phải buồn phiền chi cả !"
Thấy mặt  Thế Phong" dài" ra, tôi an ủi:
" Cho nên BG nghĩ, anh chẳng nên thắc mắc làm chi theo ba cuốn sách văn học què cụt đấy tính phe đảng như bộ 6 tập' Văn  Học Miền Nam'  của ông Võ Phiến, khi không thấy có tên tuổi Thế Nguyên và Hồi Chuông Tắt Lửa.   Ở đây,  anh em mình đang nói về Võ Phiến - một nhân vật tạm gọi là có bề thế - mà còn như vậy, thì xá gì cái đám vô danh tiểu tốt,  mỗi năm viết một bài tổng kết văn học cho các tờ báo Xuân, hoặc cái đám vì không có tài làm văn chương , và cũng vì lợi ích riêng mà nhẩy ra in các cuốn tổng kết văn học hay tổng kết các nhà văn VN này kia các thứ,  mình hơi đâu mà bận tâm đến !"
Thế Phong cau mặt:
" Đồng ý với BGiấy ở điểm ' do bởi không có tài văn chương mới đứng ra viết các loại sách tổng kết'  bởi  vì đọc các cuốn ấy thấy nó nghèo nàn quá, nhưng xin BGiấy giải thích rõ hơn về chữ' lợi riêng' vừa nói ?
Tôi gật:
" Anh có nhớ cái lần BGiấy dự đám cưới con gái anh mùa hè năm 2000 ở Sài gòn không ?
        " Bữa đó anh em mình đã bàn nhau là chỉ giới thiệu cái tên  Thu Vân, một Việt kiều ở Pháp về thôi; vậy mà khi thiên hạ kháo nhau BGiấy chính là TTBG ở Mỹ, đột nhiên có một anh đến chào và tự giới thiệu là nhà thơ Phổ Đức.   Sau dăm điều ba chuyện xã giao, anh ta nói thẳng ra là xin BGiấy gửi cho một vài bài thơ và 300.000 đồng VN.   Hỏi tại sao ?  Anh ta đáp: " bài thơ để in vào một tuyển tập thi ca nhiều tác giả sắp xuất bản của anh ta, và 300.000 là tiền đóng góp in ấn của từng tác giả có tên trong tuyển tập.'   Lúc ấy BGiấy đáp :' Rất tiếc tôi là nhà văn chứ không  phải  là nhà thơ.   Tôi không biết làm thơ nên chẳng có thơ để gửi cho anh đâu.'.
Thì đại loại các cuốn tổng kết tác giả, tổng kết tác phẩm, thậm chí đến các tờ báo văn học ở Mỹ - trừ ra tờ
' Văn Uyển'  của TTBG- đều  là như thế.   Chỉ là một sự' tổng kết bạc quyên góp' từ các con thiêu thân  háo ánh sáng danh vọng, hay các người ưa đi vào văn học sử bằng đường mương, đường hẻm, chứ không bằng đại lộ huy hoàng mở ra từ thực lực tài năng.   Do đó, sẽ là điều rất dễ hiểu để giải thích cho hai chữ' nghèo nàn' mà anh vừa nói:
       "Cạnh bên  tên tuổi các thi nhân tầm cỡ thì lại cũng không thiếu gì tên tuổi các biên-tập-sĩ, chủ-nhiệm-sĩ, chủ-bút-sĩ, ngâm-sĩ, quảng-cáo-sĩ, lòi-sĩ... này kia các thứ.   Nếu là anh, anh có thấy mắc cỡ và buồn cho cái tên anh phải đứng chung hàng với các nhân-vật-sĩ vô tài mà lại rất háo danh kia không ?
"
Thế Phong gật gù ra vẻ hiểu.   Tôi cười:
" Khôi hài nhưng cũng rất cảm động một điều là BGiấy từng nhận không biết bao nhiêu cú điện thoại từ độc giả, luôn cả từ anh  Nguyễn Đắc Sơn nhà ta, gọi đến với giọng thật hốt hoản : ' BGiấy ơi !    Sao đọc thấy trên cuốn' Tổng Kết ' ( Y, Tổng kết X...) không thấy có tên TTBG?'.    BGiấy trả lời ;' Không có càng tốt chứ sao, đã phải tốn tiền đóng góp, cũng đỡ phải khó chịu khi nhìn thấy cái tên mình nằm chung
 trong cái giòng văn chương dịch vật kia !"
Tôi tiếp:
" Kể anh nghe chuyện này.
Một lần ở Santa Ana dạo 1996, khi nghe Cao Xuân Huy - gặp trong một quán café - ngỏ lời xin lỗi vì đã bỏ rơi hai cái tên TNH & TTBG, không cho nằm  trên cuốn' Hai Mươi Năm Văn Học Hải Ngoại' của  Khánh Trường , theo sự bắt buộc của anh họa sĩ ấy, thì Trần Nghi Hoàng la lên: ' Tụi tao phải cám ơn mày ở sự bỏ rơi đó mới đúng.   Chẳng lẽ tên tao, tên TTBG mà lại đứng chung được cùng hàng ngũ với những tên dốt như thằng Khánh Trường sao ?".
Tiếng cười Thế Phong  vang dội khắp quán cà phê:
".....đối đáp hay ... !"
" Đúng", tôi gật.    Nhưng  phải nói rõ với anh, đó là Trần Nghi Hoàng của dạo còn đứng cạnh bên  TTBG, nên thấy hào khí lắm, chứ TNHoàng kể từ lúc bỏ xa tên TTBG thì không được thế đâu?   Lý do: ở trang báo nào, cuốn tổng kết nào, diễn đàn điện tử nào dù lá cải rẻ tiền đần đâu cũng đều thấy có tên và bài viết của anh ta - những điều mà trong 7 năm ở với BGiấy, anh ta không hề làm vì rất khinh ghét!   Ông bà mình bảo
:' Giàu nhờ bạn sang nhờ vợ', thì cũng  có thể hiểu ngược lại câu nói đó rằng;'  Nghèo VÌ bạn, hèn VÌ vợ'!
       BGiấy- và rất nhiều độc giả - thấy thật tiếc cho anh ta.   may một điểm là con gái Âu Cơ tuy nói tiếng việt rất sõi, nhưng lại không đọc được tiếng việt, và cũng chẳng bao giờ quan tâm tò mò mở ra các tờ báo. các diễn đàn việt ngữ, nên BG cũng đỡ đau lòng theo Âu Cơ.
Tôi tiếp:
"  Trở lại chuyện ông Võ Phiến.    Dạo trước, trong các bữa tiệc tại nhà BG, anh em văn nghệ khi nói về Võ Phiến thường hay đùa cợt :" Nước VN dưới mắt Võ Phiến không lớn hơn cái bánh tráng xứ Bình Định của ông ta ".   Bây giờ mới hiểu tại sao mà anh em lại buông ra lời giễu cợt đó.   Bởi, nếu dựa theo 6 tập
' Văn Học Miền Nam'  với cái tính' coi nước VN không lớn hơn cái bánh tráng của vùng quê Bình Định'  - thì  ông ta nghĩ trong thời đoạn 1955- 1963, trên tấm chiếu văn học Miền Nam đã có ông ta ngồi chễm chệ là đủ, cần gì viết thêm tên những người khác thời đoạn 1963-1975 nữa vào cho phí giấy !"
Thế Phong cười lớn :
" Quá đúng ! Nhưng không chỉ 'một mình' như BG nói đâu, mà phải kể thêm tên của ông em hắn ta vào nữa mới đủ."
" Sao vậy?" , tôi kêu lên.
Thế Phong giải thích:
" Bộ sách viết về' Văn Học Miền Nam'  mà hắn ta ghi  cả' cuộc đời và tác phẩm' của em trai mình trên chiếu văn đối lập."
Tôi gục gặc đầu:
" BG cũng biết điều đó, nhưng không bận tâm lắm".
" Sao lại không ?", Thế Phong la to.   " Văn học miền Nam "là  văn học Quốc gia, hà cớ gì Võ Phiến lại ghi tên em mình vào, một anh chàng thuộc phe đối lập ?
" Anh giải thích rõ cho BG biết đi !"
" Này nhé, trong TUYỂN TẬP LÊ VĨNH HÒA ( NXB Tổng Hợp Hậu Giang & NXB Văn Nghệ tp. HCM, 1986) ghi rõ như sau:
' Lê Vĩnh Hòa tên thật là  Đoàn Thế Hối , sinh ngày 6/10/1932 ở Bình Định, hy sinh 7/1/ 1967 tại Hậu Giang trong một trận đánh lớn.   Thứ nam của ông Đoàn Thế Cẩn và bà Ngô Thị Công.   Lúc nhỏ Lê Vĩnh Hòa theo cha vào sống ở xã Vĩnh Hòa, tỉnh Rạch Giá ( nay Kiên Giang ).   Sau 1954 ở lại Miền Nam công tác tại Bộ Tư Lệnh Phần Liên Khu Miền Tây.   năm 1957 vào đảng CSVN, bút danh khác lý Nhị Anh.   Viết truyện,  làm thơ.   Truyện ngắn đầu tay' Vỏ Cà Rem' đăng trên báo'  Nhân Loại' xuất bản ở Sài gòn.   Từ đó, các truyện ngắn đăng trên' Nhân Loại',' Bông Lúa','Tiến Thủ',' Phụ Nữ Diễn Đàn' v.v.. Vợ Lê Vĩnh Hòa là Hạnh, quê  ở Sóc Trăng, nên đa số các sáng tác của ông viết nhiều nhất là vào năm 1966   ở Sóc Trăng, quê vợ.   Trong' Tuyển tập Lê Vĩnh  Hòa'  cũng chia ra làm 2 phần: sáng tác trong vùng  quốc gia ( 1956-57)  và  trong bưng biền 1964-65)."
Tôi lại thốt:
" Bộ nhớ của anh đúng là một kho tàng tài liệu văn học!   Điều vừa rồi anh nói, BG cũng có nghe loáng thoáng trong các bữa ăn ngày xưa ở nhà mình, nhưng sao chẳng thấy ai ở hải ngoại đặt vấn đề cặn kẽ theo
 chi tiết chết người này trong sách Võ Phiến ?
Thế Phong cười lớn, điệu khinh mạn:
" Đó là do  từ cái tệ nạn kéo bè kết đảng truyền thống trong giới văn chương VN dù ở hải ngoại hay là ở đây cũng vậy !.   Cũng  cái kiểu kéo bè kết đảng mà Võ Phiến , nếu  thích ai là đàn bà ( như Túy Hồng
thì ' nâng bàn tọa', đàn ông ( như Nguyễn Mộng Giác ) thì' nâng bi', mời lên ngồi trên chiếu cạp điều văn học, do chính tay hắn trải.   Còn những ai không' hạp nhãn' ( như Nguyễn Thị Hoàng) thì hắn đạp hẳn xuống đất đen không thương xót ."
Thế Phong kết luận ngon ơ:
" Vì vậy mà không lạ, nếu thấy tên một  nhà văn  đối lập*( *  cụm từ thay thế / BT)  nằm chình ình trong cuốn sổ' Văn Học Miền Nam'!".
Rồi gật gù, anh nói:
" Trở lại với chuyện Lê Ngộ Châu và tờ Bách Khoa.   Có lần tôi mua được từ một tiệm sách cũ nổi tiếng bậc nhất của Sài gòn- tiệm sách cũ Kỳ Thư-  chừng 15 tác phẩm của tôi, xuất bản trước 1975, nơi trang nhất vẫn còn chữ ký tác giả đề tặng anh Lê Ngộ Châu, báo Bách Khoa.   Đem đến khoe với vợ chồng anh Châu, tôi nói;
"Thật tình tôi  không có ý  trách là anh chị đã đem bán cân , bán kí lô đống sách này, trái lại tôi phải
ngờ mua được nó, mà bây giờ tôi mới có được những tư liệu cũ.   Vậy tôi phải cảm ơn anh chị. "

 Tuy không nói ra, nhưng tôi biết mớ sách cũ ấy của tôi đã cùng với cái thư viện của anh Châu bị thất  tán sau 1975, vì một lý do rất đáng nhớ.   Có một  chàng tên Nguyễn Huy Kh..., trước khi  ra hoạt động trong vùng giải phóng, đã từng là tác giả một cuốn sách  biên khảo nào đó được NXB Khai Trí in.
Sau 1975, từ Cục R trở về  Sải gòn với biệt danh Hai K..., tìm đến thăm anh Lê Ngộ Châu- thấy cái tủ sách đồ sộ của anh Châu, nên dọa :' đến giờ này làm sao chưa bị phường khóm tịch biên đưa đi tái sinh thì cũng lạ !   Nếu không biết cách gửi đi, thì cũng tới lượt thôi'.   Ấy thế là anh Châu dâng toàn bộ tủ sách cho anh Hai K.    Anh này có bồ nhí, sau lấy làm vợ, thì lại bị nhà văn  P.N.N, tác giả" Dọc đường số Một" đi học tập cải tạo trở về, tán tỉnh sao đó, cuỗm mất cô bé này đưa lên Lái Thiêu xây tổ ấm- thời gian trước ngày chàng văn sĩ  lên đường đi Mỹ, diện HO.    Không biết có phải anh chồng cô đơn,  tức giận -  bèn gọi ve chai vào bán hết tủ sách ấy.   ( như lời kể của chủ tiệm sách  cũ) .   Do đó, tôi mới lại được
' châu về Hiệp phố' với chữ nghĩa của mình ?!" []  TTBG.

(  trích - " Điệu múa cuối cùng của con thiên nga' ( tập 2), Văn Uyển xuất bản,
San Jose - USA,  2005, tr. 151- 166 ).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét